Đại Phẩm I: Chương Trọng Yếu – Tụng Phẩm Thứ Nhất

Đại Phẩm I

Chương Trọng Yếu

Tụng Phẩm Thứ Nhất

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Uruvelā bên bờ sông Nerañjarā nơi cội cây bồ đề và vừa mới thành tựu quả vị Chánh Đẳng Giác.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã ngồi với một tư thế kiết già ở cội cây bồ đề trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

Khi ấy vào canh một của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng:

Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi), các hành duyên cho thức (sanh khởi), thứcduyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), sáu xứ duyên choxúc (sanh khởi), xúc duyên cho thọ (sanh khởi), thọ duyên cho ái (sanh khởi), ái duyên chothủ (sanh khởi), thủ duyên cho hữu (sanh khởi), hữu duyên cho sanh (sanh khởi), sanh duyên cho lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu, não sanh khởi. Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Nhưng chính do sự diệt tận của vô minh hoàn toàn không còn tham ái (đưa đến) sự diệt tận của các hành, do sự diệt tận của các hành (đưa đến) sự diệt tận của thức, do sự diệt tận của thức (đưa đến) sự diệt tận của danh sắc, do sự diệt tận của danh sắc (đưa đến) sự diệt tận của sáu xứ, do sự diệt tận của sáu xứ (đưa đến) sự diệt tận của xúc, do sự diệt tận của xúc(đưa đến) sự diệt tận của thọ, do sự diệt tận của thọ (đưa đến) sự diệt tận của ái, do sự diệt tận của ái (đưa đến) sự diệt tận của thủ, do sự diệt tận của thủ (đưa đến) sự diệt tận của hữu, do sự diệt tận của hữu (đưa đến) sự diệt tận của sanh, do sự diệt tận của sanh (đưa đến) lão, tử,sầu, bi, khổ, ưu, não được diệt tận. Như thế là sự diệt tận của toàn bộ khổ uẩn này.”

Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền thì tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó nhận biết rằng (mọi) việc là có nguyên nhân.”

Sau đó vào canh giữa của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi),các hành duyên cho thức (sanh khởi), thức duyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), —(như trên)— Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. —(như trên)— là sự diệt tận (của toàn bộ khổ uẩn này).”

Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi chính vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền thì tất cả điều nghi hoặc của vị ấy được rũ sạch, từ đó đã hiểu được sự tiêu hoại của các duyên.”

Sau đó vào canh cuối của đêm, đức Thế Tôn đã suy nghiệm về sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện thuận chiều và nghịch chiều rằng: “Vô minh duyên cho các hành (sanh khởi),các hành duyên cho thức (sanh khởi), thức duyên cho danh sắc (sanh khởi), danh sắc duyên cho sáu xứ (sanh khởi), —(như trên)— Như thế là sự sanh khởi của toàn bộ khổ uẩn này. —(như trên)— là sự diệt tận (của toàn bộ khổ uẩn này).”

Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Quả vậy, khi các pháp hiện rõ đến vị Bà-la-môn tinh cần đang tham thiền, trong khi đánh tan binh đội của Ma Vương, (vị ấy) hiển hiện tựa như ánh mặt trời đang rọi sáng không gian.”

Dứt phần giảng về sự Giác Ngộ.

–ooOoo– 

Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Bồ Đề đã đi đến cây si của những người chăn dê,[1] sau khi đến đã ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây si của những người chăn dê trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

Khi ấy, có vị Bà-la-môn nọ thuộc nhóm chuyên luyện về âm “hum, hum” đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, vị Bà-la-môn ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Thưa ngài Gotama, (khả năng) đến đâu (mới gọi) là Bà-la-môn? Và việc trở thành Bà-la-môn có bao nhiêu điều kiện?”

Sau khi hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Vị Bà-la-môn nào có ác pháp đã được ngăn trừ, là vị không làm tiếng ‘hum hum,’ đã thoát khỏi điều ô nhiễm, có bản thân đã được thu thúc, là vị thông thạo các bộ Vệ Đà, sống theo đời Phạm hạnh, vị ấy có thể thuyết giảng một cách đúng đắn lời nói của Phạm Thiên, vị ấy không có khuyết điểm về bất cứ điều gì ở trên thế gian.”

Dứt phần giảng về (cội cây si của những) người chăn dê.

–ooOoo–

Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây si của những người chăn dê đã đi đến cây Mucalinda, sau khi đến đã ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây Mucalinda trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

Vào lúc bấy giờ, có đám mây đen lớn sái mùa xuất hiện, có mưa tầm tã trong bảy ngày, có gió lạnh và đầy mây.

Khi ấy, rồng chúa Mucalinda đã rời khỏi chỗ ngụ của mình dùng thân quấn quanh cơ thể của đức Thế Tôn bảy vòng và phồng lớn mang rồi duy trì ở phía trên đầu của đức Thế Tôn (nghĩ rằng): “Chớ để đức Thế Tôn bị lạnh, chớ để đức Thế Tôn bị nóng, chớ để đức Thế Tôn bị xúc chạm bởi ruồi, muỗi, gió, nắng, và các loài bò sát.”

Sau đó khi bảy ngày trôi qua, rồng chúa Mucalinda sau khi biết rằng bầu trời đã trở nên trong sáng và mây đã tan nên đã nới lỏng thân khỏi cơ thể của đức Thế Tôn, rồi thay đổi hình dạng của chính bản thân và biến thành hình dạng của người thanh niên đứng ở phía trước đức Thế Tôn, tay chắp lại, bày tỏ thái độ cung kính đến đức Thế Tôn.

Sau đó, khi đã hiểu được ý nghĩa sự việc ấy, rồi vào lúc ấy đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng này:

Sự sống cách ly là an lạc đối với vị hoan hỷ, đối với vị có Pháp đã được nghe, đối với vị đang xem xét. Sự không oán hận, sự chế ngự đối với các chúng sanh có mạng sống là niềm hạnh phúc ở trên đời.

Việc xa lìa luyến ái, sự vượt qua các dục là niềm an lạc ở trên đời. Điều gì là sự thoát ra khỏi tựmãn về bản ngã, điều ấy chính là sự an lạc tối thượng.”

Dứt phần giảng về cây Mucalinda.

–ooOoo–

Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Mucalinda đã đi đến cây Rājāyatana, sau khi đến đã ngồi xuống với một tư thế kiết già ở cội cây Rājāyatana trong bảy ngày, hưởng niềm an lạc của sự giải thoát.

Vào lúc bấy giờ, có các thương buôn Tapassu và Bhallika đang đi đường xa từ Ukkalā đến khu vực ấy. Khi ấy, vị Thiên thần là thân quyến cùng huyết thống của các thương buôn Tapassu và Bhallika đã nói với các thương buôn Tapassu và Bhallika điều này:

– Này các bác, đức Thế Tôn này đang ngự ở cội cây Rājāyatana là vị đầu tiên được hoàn toàn giác ngộ. Hãy đi và bày tỏ lòng thành kính đến đức Thế Tôn ấy với bánh bột gạo và mật viên. Điều ấy sẽ đem lại cho các bác sự lợi ích và sự an vui lâu dài.

Khi ấy, các thương buôn Tapassu và Bhallika đã mang theo bánh bột gạo và mật viên đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, các thương buôn Tapassu và Bhallika đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên của chúng tôi. Điều ấy sẽ đem lại cho chúng tôi sự lợi ích và sự an vui lâu dài.”

Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Các đức Như Lai không thọ lãnh ở (hai) tay, vậy ta nên thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên bằng vật gì?” Khi ấy, bốn vị Đại Thiên Vương dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã dâng lên đức Thế Tôn bốn cái bình bát làm bằng đá từ ở bốn phương (nói rằng): – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên ở đây.” Đức Thế Tôn đã thọ lãnh bánh bột gạo và mật viên trong bình bát mới[2] làm bằng đá, và sau khi thọ lãnh đã thọ dụng.

Sau đó, các thương buôn Tapassu và Bhallika đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, chúng con đây xin đi đến nương nhờ đức Thế Tôn và Giáo Pháp. Xin đức Thế Tôn chấp nhận chúng con là các nam cư sĩ đã đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.” Và họ đã trở thành những nam cư sĩ đọc hai câu (nương nhờ)[3] đầu tiên ở thế gian.

Dứt phần giảng về cây Rājāyatana.

–ooOoo–

Sau đó khi bảy ngày trôi qua, đức Thế Tôn đã xuất khỏi định ấy rồi từ cội cây Rājāyatana đã đi đến cây si của những người chăn dê. Ở nơi ấy, đức Thế Tôn ngụ tại cội cây si của những người chăn dê.

Sau đó, trong khi đức Thế Tôn đang thiền tịnh ở nơi thanh vắng, có ý nghĩ suy tầm như vầy đã sanh khởi: “Pháp này đã được ta chứng ngộ là (Pháp) thâm sâu, khó lĩnh hội, khó nhận thức, thanh tịnh, cao quý, vượt trên lý luận, tinh tế, nên được hiểu biết bởi các bậc trí. Tuy nhiên, chúng sanh này có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục. Quả vậy, đối với chúng sanh có sự thỏa thích trong ngũ dục, được thỏa thích trong ngũ dục, được vui sướng trong ngũ dục thì vấn đề này khó lĩnh hội tức là tính chất của duyên và sự sanh khởi tùy thuận theo điều kiện. Còn có vấn đề này còn khó lĩnh hội hơn nữa tức là sự yên lặng của tất cả các Hành, sự dứt bỏ tất cả mầm mống của sự tái sanh, sự diệt tận ái, sự không còn dục tình, sự tịch diệt, Niết Bàn. Hơn nữa, nếu ta thuyết giảng Giáo Pháp và những người khác không thể hiểu được ta, điều ấy sẽ đem lại sự mệt mỏi cho ta, điều ấy sẽ đem lại sự phiền toái cho ta.”

Rồi những lời kệ kỳ diệu này chưa từng được nghe trước đây trong thời quá khứ đã hiện khởi đến đức Thế Tôn:

(Pháp này) đã được ta chứng đắc một cách khó khăn, giờ đây khỏi phải thuyết giảng. Pháp này không dễ dàng được hiểu thấu đáo bởi những kẻ chìm đắm trong ái dục và sân hận.

(Pháp này) đi ngược giòng (đời), tinh tế, thâm sâu, khó lĩnh hội, vi diệu, những kẻ thỏa thích ái dục, bị che phủ bới tăm tối dày đặc, không thể nhận thức được.”

Trong khi đắn đo cân nhắc như thế ấy, tâm của đức Thế Tôn thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp. Khi ấy, vị Phạm Thiên Sahampati dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của đức Thế Tôn nên đã khởi ý điều này: “Như thế này thì thế gian bị tiêu diệt! Như thế này thì thế gian bị hủy hoại! Bởi vì tâm của đức Như Lai, bậc A-la-hán, đấng Chánh Biến Tri thiên về (khuynh hướng) không ra sức nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp.”

Sau đó, cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tự như thế vị Phạm Thiên Sahampati đã biến mất ở cõi Phạm Thiên và hiện ra ở phía trước đức Thế Tôn. Khi ấy, Phạm Thiên Sahampati đã đắp thượng y một bên vai, quỳ đầu gối bên phải trên mặt đất, rồi chắp tay hướng về đức Thế Tôn và đã nói điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, xin đấng Thiện Thệ hãy thuyết giảng Giáo Pháp. Có những hạng người sanh lên có tầm nhìn ít bị vấy bụi sẽ là những người hiểu được Giáo Pháp, (nhưng) do việc không nghe Giáo Pháp sẽ bị tha hóa.” Phạm Thiên Sahampati đã nói điều ấy, sau khi nói điều ấy còn nói thêm điều khác nữa:

Trước đây ở trong xứ Magadha đã xuất hiện pháp không thanh tịnh được nghĩ ra bởi những người có sự ô nhiễm. Xin Ngài hãy mở ra cánh cửa Bất Tử này. Hãy (để cho chúng sanh) lắng nghe Giáo Pháp đã được chứng ngộ bởi bậc vô nhiễm.

Như người đứng trên tảng đá ở đỉnh đầu của ngọn núi, cũng giống như người nhìn xem nhân loại ở chung quanh, hỡi bậc trí, tương tự như thế ấy Ngài hãy bước lên tòa lâu đài được xây bằng Giáo Pháp. Hỡi bậc thông hiểu rộng, là bậc đã thoát khỏi buồn đau, xin Ngài hãy nhìn xuống xem nhân loại bị đắm chìm trong sầu khổ, bị hành hạ bởi sự sanh và sự già.

Hỡi vị anh hùng, người đã chiến thắng trận đấu, xin Ngài hãy đứng lên. Hỡi người hướng dẫn đoàn xe, vị không vướng nợ nần, xin Ngài hãy du hành ở thế gian. Xin đức Thế Tôn hãy thuyết giảng Giáo Pháp, sẽ có nhiều người hiểu được.”

Khi ấy, sau khi hiểu được yêu cầu của vị Phạm Thiên, đức Thế Tôn thuận theo lòng thương tưởng chúng sanh đã dùng Phật nhãn quán xét thế gian. Trong khi dùng Phật nhãn quán xét thế gian, đức Thế Tôn đã nhìn thấy những chúng sanh có tầm nhìn bị vấy bụi ít và có tầm nhìn bị vấy bụi nhiều, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nhìn thấy) một số chúng sanh đang sống có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong tội lỗi và (sự tái sanh vào) những đời sống khác.

Cũng giống như ở hồ sen xanh hoặc ở hồ sen hồng hoặc ở hồ sen trắng, có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, không vươn ra khỏi nước, và được nuôi dưỡng chìm ở bên trong (nước); có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, sống ngang bằng mặt nước; và có một số sen xanh, hoặc sen hồng, hoặc sen trắng được sanh ra ở trong nước, được phát triển ở trong nước, vươn lên khỏi nước, và tồn tại không bị thấm nước; tương tự như thế, đức Thế Tôn trong khi dùng Phật nhãn quán xét thế gian đã nhìn thấy những chúng sanh có tầm nhìn bị vấy bụi ít và có tầm nhìn bị vấy bụi nhiều, có giác quan sắc sảo và có giác quan cùn lụt, có tánh khí tốt và có tánh khí tồi, có thể hiểu được một cách nhanh chóng và có thể hiểu được một cách khó khăn, (và nhìn thấy) một số chúng sanh đang sống có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong tội lỗi và (sự tái sanh vào) những đời sống khác; sau khi nhìn thấy đã nói với vị Phạm Thiên Sahampati bằng bài kệ này:

Các cánh cửa Bất Tử đã được mở ra cho những người có sự lắng nghe. Hãy khiến chúng từ bỏ tà tín. Này Phạm Thiên, với suy nghĩ về việc tổn hại, ta đã không thuyết giảng Pháp cao quý tuyệt vời cho nhân loại.”

Khi ấy, vị Phạm Thiên Sahampati (nghĩ rằng): “Ta đã tạo ra cơ hội cho đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp” nên đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, và đã biến mất ngay tại chỗ ấy.

Dứt phần giảng về sự thỉnh cầu của vị Phạm Thiên.

–ooOoo–

Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Āḷāra Kālāma này là vị sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, đã lâu nay có bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Āḷāra Kālāma trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị Thiên thần không hiện hình đã thông báo đến đức Thế Tôn rằng: – “Bạch ngài, vị Āḷāra Kālāma đã từ trần được bảy ngày rồi.” Và trí của đức Thế Tôn cũng đã khởi lên rằng: “Vị Āḷāra Kālāma đã từ trần được bảy ngày rồi.” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Āḷāra Kālāma thuộc hạng người cao cả, bởi vì nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”

Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta này là vị sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, đã lâu nay có bản thể bị ít ô nhiễm, hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến Uddaka Rāmaputta trước tiên? Vị ấy sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng.” Khi ấy, có vị Thiên thần không hiện hình đã thông báo đến đức Thế Tôn rằng: – “Bạch ngài, vị Uddaka Rāmaputta đã từ trần vào đêm qua.” Và trí của đức Thế Tôn cũng đã khởi lên rằng: “Vị Uddaka Rāmaputta đã từ trần vào đêm qua.” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Vị Uddaka Rāmaputta thuộc hạng người cao cả, bởi vì nếu nghe được Giáo Pháp này vị ấy có thể hiểu được một cách thật nhanh chóng.”

Sau đó, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Ta nên thuyết giảng Giáo Pháp đến ai trước tiên? Ai sẽ hiểu được Giáo Pháp này một cách thật nhanh chóng?” Khi ấy, đức Thế tôn đã khởi ý điều này: “Các tỳ khưu nhóm năm vị có nhiều công đức đối với ta, các vị này đã phục vụ ta trong khi bản thân ta nỗ lực tinh tấn,[4] hay là ta nên nên thuyết giảng Giáo Pháp đến các tỳ khưu nhóm năm vị trước tiên?” Khi ấy, đức Thế Tôn đã khởi ý điều này: “Giờ đây, các tỳ khưu nhóm năm vị này trú ngụ ở nơi nào?” Với Thiên nhãn thanh tịnh vượt trội loài người, đức Thế Tôn đã nhìn thấy các tỳ khưu nhóm năm vị đang trú ngụ tại thành Bārāṇasī, ở Isipatana, nơi vườn nai. Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Bārāṇasī.

Đạo sĩ lõa thể Upaka đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang đi đường xa ở khoảng giữa Gayā và cội Bồ Đề, sau khi nhìn thấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Này đạo hữu, các giác quan của đạo hữu được trầm tĩnh, màu da được thanh tịnh và trong sáng. Này đạo hữu, vì ai mà đạo hữu đã xuất gia? Ai là thầy của đạo hữu? Đạo hữu ưa thích pháp của vị nào?” Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với đạo sĩ lõa thể Upaka bằng những lời kệ này:

– “Ta là bậc vượt trên tất cả, là người hiểu biết toàn bộ, không còn bị vướng mắc trong tất cả các Pháp, đã dứt bỏ tất cả, đã được giải thoát trong việc đoạn tận tham ái, sau khi tự mình chứng đắc thì ai có thể chỉ dạy (được ta)?

Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm thấy, trong thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là đối thủ của ta.

Bởi vì ta là bậc A-la-hán, bậc Vô Thượng Sư, ở trên đời. Chỉ mình ta là bậc Chánh Đẳng Giác, ta có được trạng thái mát mẻ, Niết Bàn.

Ta đi đến thành Kāsī để chuyển vận bánh xe Giáo Pháp. Ta sẽ đánh lên tiếng trống Bất Tử ở thế gian đang bị tối tăm.”

– “Này đạo hữu, theo như đạo hữu cho biết thì đạo hữu xứng đáng là bậc Chiến Thắng vô biên.”

(Đức Phật đáp lại rằng):

– “Này Upaka, quả vậy tương đương với ta là các các bậc Chiến Thắng đã đạt đến việc đoạn tận các lậu hoặc. Ta đã chiến thắng các ác pháp vì thế ta là bậc Jina.”

Khi được nói như thế, đạo sĩ lõa thể Upaka đã nói rằng: – “Này đạo hữu, có thể là như vậy.” Rồi đã gục gặc cái đầu, rẽ sang con đường khác, và bỏ đi.

Sau đó, trong khi tuần tự du hành đức Thế Tôn đã ngự đến thành Bārāṇasī, Isipatana, nơi vườn nai và đã đi đến gặp các tỳ khưu nhóm năm vị. Các tỳ khưu nhóm năm vị đã nhìn thấy đức Thế Tôn từ đằng xa đang đi lại, sau khi nhìn thấy các vị đã bàn bạc với nhau rằng: – “Này các vị, Sa-môn Gotama ấy đang đi đến. Ông ta là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực và đã quay trở lại cuộc sống sung túc. Ông ta không đáng để đảnh lễ, không đáng để đứng dậy chào, y bát của ông ta không đáng để đón nhận; tuy nhiên, chỗ ngồi nên được xếp đặt, nếu ông ta muốn thì ông ta cứ việc ngồi.”

Nhưng khi đức Thế Tôn càng đi đến gần các tỳ khưu nhóm năm vị thì các tỳ khưu nhóm năm vị ấy đã không thể tuân theo điều bàn bạc của họ nữa. Trong khi không tuân theo, họ đã đi ra tiếp đón đức Thế Tôn, một vị đã nhận lấy y bát của đức Thế Tôn, một vị đã sắp đặt chỗ ngồi, một vị đã đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân. Đức Thế Tôn đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn. Sau khi ngồi xuống, đức Thế Tôn đã rửa hai chân. Tuy nhiên, các vị vẫn xưng hô với đức Thế Tôn bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu.” Khi được gọi như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: – “Này các tỳ khưu, chớ xưng hô với Như Lai bằng tên và bằng tiếng gọi “Đạo hữu.” Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của mình sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.

Khi được nói như thế, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Này đạo hữu Gotama, thậm chí với hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh, còn giờ đây là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực, và đã quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữu lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh?” Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: – “Này các tỳ khưu, Như Lai không phải là kẻ lợi dưỡng, không bỏ dở dang việc nỗ lực, và đã không quay trở lại cuộc sống sung túc. Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của mình sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.” Đến lần thứ nhì, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này: ―(như trên)― Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị điều này: ―(như trên)― Đến lần thứ ba, các tỳ khưu nhóm năm vị đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Này đạo hữu Gotama, thậm chí với hạnh kiểm ấy, bằng sự thực hành ấy, bằng việc theo đuổi khổ hạnh ấy còn không đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh, còn giờ đây là kẻ lợi dưỡng, bỏ dở dang việc nỗ lực, và đã quay trở lại cuộc sống sung túc, làm thế nào đạo hữu lại đạt đến pháp thượng nhân và sự siêu việt của tri kiến xứng đáng với bậc Thánh?”

Khi được nói như thế, đức Thế Tôn đã nói với các tỳ khưu nhóm năm vị rằng: – “Này các tỳ khưu, các vị có nhận ra rằng điều này đã không được ta nói ra như vầy trước đây hay không?” – “Bạch ngài, điều này đúng là không có (được nói).”[5] – “Này các tỳ khưu, Như Lai là vị A-la-hán Chánh Đẳng Giác. Này các tỳ khưu, hãy lắng tai nghe, ta sẽ chỉ dạy pháp Bất Tử đã đạt được, ta sẽ thuyết giảng Giáo Pháp. Trong khi thực hành theo như đã được chỉ dạy thì chẳng bao lâu sau ngay trong kiếp hiện tại này, các vị nhờ vào thắng trí của mình sẽ thực chứng, đạt đến, và an trú vào điểm tối thượng ấy là đích cuối cùng của Phạm hạnh, vì mục đích này mà những người con trai của các gia đình cao quý rời nhà xuất gia một cách chân chánh sống không nhà.” Đức Thế Tôn đã có thể thuyết phục các tỳ khưu nhóm năm vị. Sau đó, các tỳ khưu nhóm năm vị đã lắng nghe đức Thế Tôn, đã lắng tai, đã thiết lập tâm hướng đến trí chứng ngộ. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng:

– “Này các tỳ khưu, đây là hai cực đoan mà bậc xuất gia không nên thực hành: Đây là sự say đắm về dục lạc trong các dục, kém cỏi, thô thiển, tầm thường, không cao thượng, không đem lại lợi ích, và đây là sự gắn bó với việc hành hạ bản thân, đau khổ, không cao thượng, không đem lại lợi ích. Này các tỳ khưu, sau khi không tiếp cận cả hai cực đoan ấy, lối thực hành trung đạo đã được Như Lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng,[6] dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.

Này các tỳ khưu, lối thực hành trung đạo ấy đã được Như Lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn là thế nào? Đó chính là Thánh Đạo tám chi phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, lời nói chân chánh, nghề nghiệp chân chánh, nuôi mạng chân chánh, tinh tấn chân chánh, ghi nhớ chân chánh, định tâm chân chánh.[7] Này các tỳ khưu, lối thực hành trung đạo ấy đã được Như Lai tự mình giác ngộ khiến cho mắt được thấy, khiến cho trí được sáng, dẫn đến tịch tịnh, thắng trí, hoàn toàn giác ngộ, Niết Bàn.

Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ: Sanh cũng là khổ, già cũng là khổ, bệnh cũng là khổ, chết cũng là khổ, sự gắn bó với những gì không ưa thích cũng là khổ, sự chia lìa với những gì ưa thích cũng là khổ, không đạt được điều ước muốn cũng là khổ, một cách tóm tắt năm thủ uẩn là khổ.

Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ. Điều ấy chính là Ái đưa đến tái sanh, liên kết với khoái lạc và say đắm, có sự thỏa thích ở nơi này nơi khác tức là: Dục Ái, Hữu Ái, Phi Hữu Ái.

Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ. Điều ấy là sự dứt bỏ, sự dứt ra khỏi, sự giải thoát, sự không còn chỗ nương tựa, sự diệt tận và dứt bỏ lòng say đắm không còn dư sót của chính Ái ấy.

Này các tỳ khưu, đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ. Đó chính là Thánh Đạo tám chi phần tức là sự hiểu biết chân chánh, suy nghĩ chân chánh, ―(như trên)― định tâm chân chánh.

Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Khổ cần được hiểu rõ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đã được hiểu rõ.”

Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là Nguyên Nhân của Khổ cần được dứt bỏ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đã được dứt bỏ.”

Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Diệt Khổ cần được chứng ngộ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, ―(như trên)― ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đã được chứng ngộ.”

Này các tỳ khưu, ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, ―(như trên)― ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được ―(như trên)― “Đây là Chân Lý Cao Thượng tức là sự Thực Hành theo Con Đường đưa đến sự Diệt Khổ cần được tu tập.” Này các tỳ khưu, hơn nữa ta có được (Pháp) nhãn đã sanh khởi, trí đã sanh khởi, tuệ đã sanh khởi, minh đã sanh khởi, ánh sáng đã sanh khởi đối với các Pháp trước đây chưa từng được nghe: “―(như trên)― đã được tu tập.”

Này các tỳ khưu, và cho đến khi nào tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân (vòng xoay) và mười hai Thể (tính chất) về Bốn Chân Lý Cao Thượng này chưa được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, cho đến khi ấy ta chưa công bố: “Ta đã hoàn toàn giác ngộ” về vô thượng Chánh Đẳng Giác ở trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người.

Và này các tỳ khưu, bởi vì tri kiến thấy đúng thực chất của ta về ba Luân và mười hai Thể ở Bốn Chân Lý Cao Thượng này đã được thực sự thanh tịnh; này các tỳ khưu, khi ấy ta đã công bố: “Ta đã hoàn toàn giác ngộ” về vô thượng Chánh Đẳng Giác ở trong thế gian tính luôn cõi của chư Thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm Thiên, cho đến dòng dõi Sa-môn, Bà-la-môn, các hạng chư Thiên và loài người. Hơn nữa, trí tuệ và sự thấy biết của ta đã sanh khởi: “Sự giải thoát tâm của ta là không thể thay đổi, đây là lần sanh cuối cùng, giờ đây không còn tái sanh nữa.”

Hơn nữa, trong khi bài kinh này được thuyết giảng, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Koṇḍañña: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

Hơn thế nữa, khi bánh xe Pháp được chuyển vận bởi đức Thế Tôn, chư Thiên ở địa cầu đã đồn đãi lời rằng: “Bánh xe Pháp vô thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm Thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.”

Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên ở địa cầu, chư Thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương đã đồn đãi lời rằng: ―(như trên)― Sau khi nghe được tiếng đồn của chư Thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương, chư Thiên ở cõi Đạo Lợi đã đồn đãi lời rằng: ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Dạ Ma ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Đẩu Suất ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Hóa Lạc Thiên ―(như trên)― chư Thiên ở cõi Tha Hóa Tự Tại ―(như trên)― chư Thiên thuộc hàng Phạm Thiên đã đồn đãi lời rằng: “Bánh xe Pháp vô thượng ấy đã được đức Thế Tôn chuyển vận ở Bārāṇasī, tại Isipatana, nơi vườn nai không thể bị chuyển vận nghịch lại bởi Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên nhân, Ma Vương, Phạm Thiên, hoặc bất cứ ai ở trên đời.”

Vào thời khắc ấy, vào giây phút ấy, lời đồn đãi ấy đã đi đến các cõi trời Phạm Thiên. Và mười ngàn thế giới này đã bị lay chuyển, rung động, chấn động. Và ánh sáng tuyệt vời không thể đo lường đã hiện ra ở thế gian, vượt quá năng lực siêu phàm của chư Thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn đã thốt lên lời cảm hứng rằng: “Koṇḍañña đã hiểu được! Koṇḍañña đã hiểu được!” Bởi thế, chính từ “Aññākoṇḍañña”[8] này đã trở thành tên gọi của đại đức Koṇḍañña.

Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, đại đức Aññākoṇḍañña đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: – “Này tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của đại đức ấy.

Sau đó, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại bằng bài Pháp thoại. Khi ấy, trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Vappa và đại đức Bhaddiya: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: – “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

Sau đó, với bữa ăn đã được mang lại, đức Thế Tôn đã giáo huấn, đã chỉ dạy các vị tỳ khưu còn lại bằng bài Pháp thoại. Nhóm sáu vị sống bằng vật mà ba vị tỳ khưu đi khất thực và mang về.

Khi ấy, trong lúc được giáo huấn, được chỉ dạy bởi đức Thế Tôn bằng bài Pháp thoại, Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến đại đức Mahānāma và đại đức Assaji: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.” Khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, các vị ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, chúng con có thể xuất gia trong sự hiện diện của đức Thế Tôn không? Chúng con có thể tu lên bậc trên không?” Đức Thế Tôn đã nói rằng: – “Này các tỳ khưu, hãy đến. Pháp đã khéo được thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Chính lời nói ấy đã là sự tu lên bậc trên của các đại đức ấy.

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu nhóm năm vị rằng: – “Này các tỳ khưu, Sắc là Vô Ngã.[9] Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Sắc này là Ngã thì Sắc này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: “Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Sắc là Vô Ngã do đó Sắc đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Sắc (theo ý muốn) rằng: “Sắc của ta hãy là như vầy, Sắc của ta đừng trở thành như vầy.”

Này các tỳ khưu, Thọ là Vô Ngã. Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Thọ này là Ngã thì Thọ này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thọ (theo ý muốn) rằng: “Thọ của ta hãy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Thọ là Vô Ngã do đó Thọ đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thọ (theo ý muốn) rằng: “Thọ của ta hãy là như vầy, Thọ của ta đừng trở thành như vầy.”

Này các tỳ khưu, Tưởng là Vô Ngã. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, các Hành là Vô Ngã. Này các tỳ khưu, bởi vì nếu các Hành này là Ngã thì các Hành này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở các Hành (theo ý muốn) rằng: “Các Hành của ta hãy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì các Hành là Vô Ngã do đó các Hành đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở các Hành (theo ý muốn) rằng: “Các Hành của ta hãy là như vầy, các Hành của ta đừng trở thành như vầy.”

Này các tỳ khưu, Thức là Vô Ngã. Này các tỳ khưu, bởi vì nếu Thức này là Ngã thì Thức này không thể đi đến bệnh hoạn và có thể đạt được ở Thức (theo ý muốn) rằng: “Thức của ta hãy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.” Này các tỳ khưu, chính vì Thức là Vô Ngã do đó Thức đi đến bệnh hoạn và không thể đạt được ở Thức (theo ý muốn) rằng: “Thức của ta hãy là như vầy, Thức của ta đừng trở thành như vầy.”

“Này các tỳ khưu, các vị nghĩ gì về Sắc ấy, là thường hay vô thường?” – “Bạch ngài, là vô thường.” – “Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?” – “Bạch ngài, là khổ.” – “Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là hợp lý khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”?” – “Bạch ngài, điều ấy không (hợp lý).” – “Này các tỳ khưu, Thọ ―(như trên)― Tưởng ―(như trên)― các Hành ―(như trên)― Thức là thường hay vô thường?” – “Bạch ngài, là vô thường.” – “Vậy cái gì (đã) là vô thường thì cái ấy là khổ hay lạc?” – “Bạch ngài, là khổ.” – Vậy cái gì (đã) là vô thường, khổ, có trạng thái thay đổi, có phải là hợp lý khi quán xét về cái ấy rằng: “Cái này là của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta”? – “Bạch ngài, điều ấy không hợp lý.”

Này các tỳ khưu, như thế trong trường hợp này, bất cứ Sắc nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, hay ở xa, hay ở gần, nên thấy được toàn bộ Sắc ấy đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.” Bất cứ Thọ nào ―(như trên)― bất cứ Tưởng nào ―(như trên)― bất cứ các Hành nào ―(như trên)― bất cứ Thức nào thuộc về quá khứ, hiện tại, vị lai, là trong thân, hay ngoài thân, hay thô kệch, hay vi tế, hay kém cỏi, hay cao quý, hay ở xa hay ở gần, nên thấy được toàn bộ Thức ấy đúng như bản chất thật sự bằng trí tuệ chân chánh (như vầy): “Cái này không phải là của ta, cái này không phải là ta, cái này không phải là tự ngã của ta.”

Này các tỳ khưu, trong khi thấy được như thế, vị Thánh đệ tử có sự học hỏi không còn hứng thú trong Sắc, không còn hứng thú trong Thọ, không còn hứng thú trong Tưởng, không còn hứng thú trong các Hành, không còn hứng thú trong Thức; trong khi không còn hứng thú, vị ấy không còn say đắm; do không còn say đắm vị ấy được giải thoát; trong khi được giải thoát, trí khởi lên rằng: “Đã được giải thoát.” Vị ấy biết được rằng: “Sự tái sanh đã cạn kiệt, Phạm hạnh đã sống, việc cần làm đã làm, không còn gì khác (phải làm) đối với bản thể (A-la-hán) này nữa.”

Đức Thế Tôn đã giảng về điều ấy. Các tỳ khưu nhóm năm vị đã vô cùng hoan hỷ với lời dạy của đức Thế Tôn. Hơn thế nữa, trong khi bài kinh này được thuyết giảng, các tâm của các tỳ khưu nhóm năm vị đã không còn chấp thủ và đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc.

Vào lúc bấy giờ, trên thế gian có sáu vị A-la-hán.

Tụng phẩm thứ nhất.

[1] Ajapālanigrodha: Bản dịch tiếng Anh của Rhys Davids and Hermann Oldenberg dẫn chứng tài liệu và giải thích rằng: 1/ Các người chăn dê dùng bóng mát của cây si (nigrodha) để nghỉ ngơi nên được gọi là cây si của những người chăn dê. 2/ Cây si đã được một đứa bé chăn dê trồng trong thời gian Bồ-tát Siddhattha hành khổ hạnh sáu năm.

[2] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng đức Phật đã chú nguyện thành một bình bát mới từ bốn bình bát bằng đá ấy (VinA. v, 960).

[3] Nghĩa là đi đến nương nhờ đức Thế Tôn và đi đến nương nhờ Giáo Pháp, vì Hội Chúng tỳ khưu vào lúc bấy giờ chưa được hình thành (ND).

[4] Đức Thế Tôn đề cập đến sự phục vụ của năm vị này trong thời gian Ngài hành khổ hạnh sáu năm. Điểm cần lưu ý là đức Thế Tôn dùng từ “bhikkhu” dịch là “tỳ khưu” để gọi năm vị này dầu các vị chưa trở thành đệ tử và chưa tu tập theo Giáo Pháp của Ngài (ND).

[5] Lúc này năm vị không gọi đức Phật là āvuso nữa mà gọi là bhante, tỏ ý tôn trọng (ND).

[6] Dịch sát nghĩa sẽ là “có sự tạo ra con mắt, có sự tạo ra trí tuệ” (ND).

[7] Nói cho gọn hơn là Bát Chánh Đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh cần, chánh niệm, chánh định (ND).

[8] “Aññākoṇḍañña” = Aññā + koṇḍañña nghĩa là Koṇḍañña đã hiểu. Aññā được trích từ lời nói của đức Phật là: “Aññāsi vata bho Koṇḍañño. Aññāsi vata bho Koṇḍañño” rồi ghép vào phía trước tên Koṇḍañña (ND).

[9] Tốt hơn nên dịch là: ‘Sắc không phải là Ngã’ hoặc ‘Sắc không phải là Ta’ (ND).

 

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)