Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm Mười Kệ Ngôn, Phẩm 1
MAIN CONTENT
- Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm mười kệ ngôn, Phẩm 1
- 1. Catudvārajātakaṃ – Bổn Sanh Bốn Cánh Cửa
- 2. Kaṇhajātakaṃ – Bổn Sanh Ẩn Sĩ Kaṇha
- 3. Catuposathikajātakaṃ – Bổn Sanh Bốn Vị Hành Trai Giới
- 4. Saṅkhajātakaṃ – Bổn Sanh Bà-la-môn Saṅkha
- 5. Cullabodhijātakaṃ – Bổn Sanh Tiểu Giác Ngộ
- 6. Kaṇhadīpāyanajātakaṃ – Bổn Sanh Ẩn Sĩ Kaṇhadīpāyana
- 7. Nigrodhajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Nigrodha
- 8. Takkalajātakaṃ – Bổn Sanh Củ Takkaḷa
- 9. Mahādhammapālajātakaṃ – Đại Bổn Sanh Dhammapāla
- 10. Kukkuṭajātakaṃ – Bổn Sanh Con Gà Trống
- 11. Maṭṭakuṇḍalijātakaṃ – Bổn Sanh Thiên Tử Maṭṭakuṇḍali.
- 12. Biḷārakosiyajātakaṃ – Bổn Sanh Triệu Phú Biḷārakosiya
- 13. Cakkavākajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Hồng Hạc
- 14. Bhūripaññajātakaṃ – Bổn Sanh Trí Tuệ Uyên Bác
- 15. Mahāmaṅgalajātakaṃ – Bổn Sanh Điềm Lành Lớn
- 16. Ghatapaṇḍitajātakaṃ – Bổn Sanh Ghata Sáng Suốt
- TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm mười kệ ngôn, Phẩm 1
1355. Catudvāramidaṃ nagaraṃ āyasaṃ daḷhapākāraṃ, oruddha patiruddhosmi kiṃ pāpaṃ pakataṃ mayā.
1355. “Thành này làm bẳng sắt, có bốn cánh cửa, có tường thành vững chắc. Tôi đã bị giam cầm, bị ngăn chận; điều ác gì đã được tạo ra bởi tôi?”
1. Thành sắt này xây bốn cổng cao,
Con nay mắc bẫy bước chân vào,
Chung quanh con, lũy hào bao bọc,
Con đã gây nên các nghiệp nào.
1356. Sabbe apihitā dvārā oruddhosmi yathā dvijo, kimādhikaraṇaṃ yakkha cakkābhinihato ahaṃ.
1356. Tất cả các cánh cửa đã được đóng lại. Tôi bị giam cầm giống như con chim (ở trong lồng). Thưa Dạ-xoa, lý do gì mà tôi bị hành hạ bởi bánh xe?”
2. Giờ đây đóng chặt các thành môn
Và bánh xe này hủy diệt con
Nào khác chim lồng, con bị bắt.
Tại vì sao vậy, tấu Thiên vương?
1357. Laddhā satasahassāni atirekāni vīsati, anukampakānaṃ ñātīnaṃ vacanaṃ samma nākari.
1357. “Này cậu trai, sau khi đã đạt được nhiều hơn hai triệu đồng tiền, gã ấy đã không làm theo lời nói của các thân quyến, của những người thương xót (đến gã).
3. Ngài có ngày xưa chục vạn đồng,
Hai mươi lần nữa đấy, tôn ông,
Tuy nhiên ngài vẫn không hề muốn
Tai lắng nghe bằng hữu nói năng.
1358. Laṅghiṃ samuddaṃ pakkhandi sāgaraṃ appasiddhikaṃ catubbhi aṭṭhajjhagamā aṭṭhāhipi soḷasa, soḷasāhi ca battiṃsā atricchaṃ cakkamāsado icchāhatassa posassa cakkaṃ bhamati matthake.
1358. Gã đã lao vào biển cả có sóng nhồi, vào đại dương có ít điều may mắn. Với bốn (nữ nhân), gã đã đi đến tám, và cũng với tám rồi mười sáu, và với mười sáu rồi ba mươi hai (nữ nhân), trong khi ước muốn quá lố, gã nhận lấy bánh xe. Bánh xe quay tròn ở trên đầu của kẻ bị hành hạ bởi ước muốn.
4. Ngài đã vội vàng vượt đại dương
Chất đầy nguy hiểm dọc đường trường,
Nữ ma, bốn tám, ngài thăm viếng,
Mười sáu nàng, theo kế tám nàng.
1359. Upari visālā duppūrā icchā visaṭagāminī, ye ca taṃ anugijhanti te honti cakkadhārino.
1359. Các ước muốn quá to lớn là khó được làm cho đầy đủ, chúng có khuynh hướng lan tỏa rộng ra. Những kẻ nào thèm muốn điều ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).
5. Tiếp theo mười sáu, đến ba hai
Tận hưởng dục tham cứ miệt mài,
Nay hãy nhìn đây đầy phần tặng thưởng
Bánh xe dục lạc ở đầu ngài.
1360. Bahuṃ bhaṇḍaṃ apahāya maggaṃ appaṭivekkhiya, yesaṃ cetaṃ asaṅkhātaṃ te honti cakkadhārino.
1360. Sau khi đã buông bỏ nhiều của cải, sau khi đã không xem xét lộ trình, những kẻ nào đã không chuẩn bị việc ấy, những kẻ ấy trở thành những người mang bánh xe (ở trên đầu).
6. Ai đi đại lộ dục tham đầy,
Con lộ thênh thang rộng lớn thay,
Vô độ, chúng không hề thỏa mãn
Thì phần chúng đội bánh xe này.
1361. Kammaṃ samekkhe vipulañca bhogaṃ icchā naṃ seveyya anatthasaṃhitaṃ, kareyya vākyaṃ anukampakānaṃ taṃ tādisaṃ nātivatteyya cakkaṃ.
1361. Nên xem xét hành động và của cải dồi dào (của bản thân), không nên phụng sự ước muốn không liên hệ đến mục đích, nên làm theo lời nói của những người thương xót (đến mình), bánh xe sẽ không khống chế người như thế ấy.”
7. Ai chẳng mong phân phát bạc vàng,
Chẳng cầu tìm Chánh đạo bình an
Cũng không biết phải làm như vậy,
Phần bánh xe này chúng sẽ mang.
8. Hãy suy kết quả việc ngài làm
Gia sản ngài xem thật ngập tràn,
Ðừng ước làm tài chủ bất chính,
Thực hành điều bạn tốt khuyên răn,
Về sau chẳng có bao giờ nữa
Vòng bánh xe này đụng đến thân.
1362. Kīva ciraṃ nu me yakkha cakkaṃ sirasi ṭhassati, kati vassasahassāni taṃ me akkhāhi pucchito.
1362. “Thưa Dạ-xoa, vậy thì bánh xe sẽ ngự trên đầu của tôi bao lâu nữa? Bao nhiêu ngàn năm? Được hỏi, xin ngài hãy giải thích điều ấy cho tôi.”
9. Vậy tấu Thiên vương, đến lúc nào
Bánh xe này dính ở trên đầu?
Mấy ngàn năm nữa? XIn ngài dạy,
Ðừng để con hoài sức khẩn cầu.
1. Catudvārajātakaṃ – Bổn Sanh Bốn Cánh Cửa
1363. Atisaro accasaro mittavinda suṇohi me, cakkaṃ te siramāviddhaṃ na taṃ jīvaṃ pamokkhasī ”ti.
1363. “Không nhớ được! Quá khả năng nhớ! Này Mittavinda, hãy lắng nghe ta. Bánh xe được quay tròn ở đầu của cậu cho đến khi nào cậu còn chưa thoát khỏi cuộc sống ấy.”
10. Bánh xe này tiếp tục xoay vần,
Mà chẳng hiện ra vị cứu nhân
Nó dính đầu ngài cho đến chết,
Này Mít-ta hỡi có nghe chăng?
1364. Kaṇhovatāyaṃ puriso kaṇhaṃ bhuñjati bhojanaṃ, kaṇhe bhūmippadesasmiṃ na mayhaṃ manaso piyo.
1364. “Người này quả thật có màu da đen, ăn thức ăn màu đen (trái cây), sống ở mảnh đất màu đen, tâm ý của ta không yêu mến (người này).”
1. Ðằng kia, ngắm kẻ sắc đen tuyền,
Sống ở nơi này cũng đất đen,
Miếng thịt đang ăn đen xám xịt,
Tâm ta chẳng thích đáng người hiền
1365. Na kaṇho tacasā hoti antosāro brāhmaṇo, yasmiṃ pāpāni kammāni save kaṇho sujampati.
1365. “Thưa Thiên Chủ Sujampati, đen không phải là bởi màu da, bởi vì cái phẩm chất bên trong mới là Bà-la-môn. Ở kẻ nào có các việc làm ác, chính kẻ ấy là đen.”
2. Dù toàn sắc đen, hỡi Ngọc hoàng,
Tâm ta chân chính Bà-la-môn,
Màu da chẳng lỗi, nhưng làm ác
Khiến kẻ phàm nhân đen tối luôn.
1366. Etasmiṃ te sulapite patirūpe subhāsite, varaṃ brāhmaṇa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
1366. “Do điều ấy đã được ông khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này Bà-la-môn, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong muốn ở trong tâm.”
3. Nói năng khôn khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng luôn
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
1367. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, sunikkodhaṃ suniddosaṃ nillobhaṃ vuttim attano, nisnehamabhikaṅkhāmi ete me caturo vare.
1367. “Thưa Sakka, thưa vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ, tôi mong ước rằng tôi có thói quen là không còn giận dữ, không còn sân hận, không tham lam, không yêu thương; tôi có bốn ước muốn này.”
4. Thiên chủ Sak-ka của thế gian
Chọn điều hạnh phúc, lệnh ngài ban,
Ta mong thoát khỏi lòng sân hận,
Ác độc, tiêu trừ mọi dục tham,
Tất cả bốn điều này hạnh phúc,
Ta thường mơ ước tận tâm can.
1368. Kinnu kodhe ca dose vā lobhe sneheva brāhmaṇa, ādīnavaṃ sampassasi taṃ me akkhāhi pucchito.
1368. “Này Bà-la-môn, vậy ông nhận thấy điều bất lợi gì ở sự giận dữ, ở sự sân hận, ở sự tham lam, và ở sự yêu thương? Được hỏi, xin ông hãy giải thích điều ấy cho ta.”
5. Ở trong ác dục với tham sân,
Này hãy nói đi, hỡi Ðạo nhân,
Ngài thấy điều gì là bất thiện,
Trả lời ta nhé, hãy làm ơn.
1369. Appo hutvā bahu hoti vaḍḍhate so akhantijo, āsaṅgi bahupāyāso tasmā kodhaṃ na rocaye.
1369. “Sự giận dữ sanh lên từ sự không nhẫn nại. Nó khởi đầu thì ít rồi trở thành nhiều, và nó tăng trưởng, không có sự quyến luyến, có nhiều ưu phiền; vì thế, tôi không ưa thích sự giận dữ.
6. Ác ý được nuôi bởi hận sân,
Phát sinh từ nhỏ lớn lên dần,
Nên lòng tràn ngập niềm đau xót,
Vì thế ta không muốn giận hờn.
1370. Duṭṭhassa pharusā vācā parāmāso anantarā, tato pāṇi tato daṇḍo satthassa paramā gati, dosā kodhasamuṭṭhāno tasmā dosaṃ na rocaye.
1370. Người bị bực bội thì có lời nói thô lỗ, kế liền là sự va chạm, sau đó là bàn tay, rồi đến gậy gộc, giải pháp sau cùng là của vũ khí. Sân hận có nguồn sanh khởi là sự giận dữ; vì thế, tôi không ưa thích sự sân hận.
7. Cứ vậy thông thường với ác nhân,
Trước tiên lời nói, chạm vào thân,
Kế đến đấm đá, rồi cây gậy,
Sau hết lòe ra mũi kiếm trần,
Khi có ác tâm, thường phẫn nộ,
Nên lòng ta chẳng muốn hờn căm.
1371. Alopasahasākārā nikatī vañcanāni ca, dissanti lobhadhammesu tasmā lobhaṃ na rocaye.
1371. Các biểu hiện bạo lực ở sự cướp giựt, sự tráo trở, và các sự gian lận được nhìn thấy ở các pháp tham lam; vì thế, tôi không ưa thích sự tham lam.
8. Khi người, thúc dục bởi gian tham,
Lừa đảo tăng dần với dối gian,
Vội đuổi theo tiền tài cướp bóc,
Vậy nên ta chẳng muốn tâm tham.
1372. Snehasaṅgathitā ganthā senti manomayā puthu, te bhusaṃ upatāpenti tasmā snehaṃ na rocaye.
1372. Các sự trói buộc được trói buộc chung với sự yêu thương, được tạo thành bởi ý, tiềm ẩn ở các đối tượng riêng biệt, chúng gây bực bội một cách mãnh liệt; vì thế, tôi không ưa thích sự yêu thương.”
9. Trói chặt xiềng gông bởi dục tình,
Vẫn thường phát triển nảy sinh nhanh
Trong tim, làm xót xa đau nhức,
Ái dục, ta không muốn phận mình.
1373. Etasmiṃ te sulapite patirūpe subhāsite, varaṃ brāhmaṇa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
1373. “Do điều ấy đã được ông khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này Bà-la-môn, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong muốn ở trong tâm.”
10. Nói năng chân chính, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
1374. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, araññe me viharato niccaṃ ekavihārino, ābādhā mā uppajjeyyuṃ antarāyakarā bhusā.
1374. “Thưa Thiên Chủ Sakka, thưa vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ, đối với tôi là người đang sống ở trong rừng, thường xuyên độc cư, mong rằng các bệnh hoạn chớ sanh khởi, các tác nhân gây ra chướng ngại chẳng có nhiều.”
11. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Mong chốn núi rừng ta ẩn náu,
Nơi nào ta trú ngụ đơn thân,
Bệnh không làm hại niềm an tịnh,
Hoặc phá niềm thiền lạc vỡ tan.
1375. Etasmiṃ te sulapite patirūpe subhāsite, varaṃ brahmaṇa te dammi yaṃ kiñci manasicchasi.
1375. “Do điều ấy đã được ông khéo nói, đã được ông khéo thuyết, là điều thích đáng, này Bà-la-môn, ta sẽ ban cho ông một ân huệ về bất cứ điều gì ông mong muốn ở trong tâm.”
12. Nói năng thật khéo, bậc La-môn,
Diễn đạt cao siêu, tối thắng ngôn,
Hãy chọn điều gì ngài ước nguyện,
Chọn theo mệnh lệnh của tâm hồn.
2. Kaṇhajātakaṃ – Bổn Sanh Ẩn Sĩ Kaṇha
1376. Varaṃ ce me ado sakka sabbabhūtānamissara, na mano vā sarīraṃ vā maṅkate sakka kassaci, kadāci upahaññetha etaṃ sakka varaṃ vare ”ti.
1376. “Thưa Thiên Chủ Sakka, thưa vị chúa tể của tất cả chúng sanh, nếu ngài đã ban cho tôi điều ân huệ, thưa Thiên Chủ Sakka, không do tôi là nguyên nhân làm cho ý nghĩ hoặc cơ thể (thân và khẩu) của bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào, có thể bị tổn thương. Thưa Sakka, điều này là sự ước muốn về điều ân huệ.”
13. Sak-ka, Thiên chủ của trần gian,
Ngài bảo cho ta một đặc ân,
Xin chẳng sinh linh nào bị hại,
Vì ta, dù khẩu, ý hay thân.
Nơi nào cũng vậy, này Thiên chủ,
Lời nguyện này ta vẫn ước mong.
1377. Yo kopaneyye na karoti kopaṃ na kujjhati sappuriso kadāci, kuddhopi yo nāvikaroti kopaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.
1377. “Người nào là bậc thiện nhân, không bực tức với người đáng bị bực tức, không bị nổi giận vào bất cứ lúc nào, là người thậm chí bị nổi giận mà không bày tỏ sự bực tức, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”
1. Thiện nhân không cảm thấy hờn căm,
Đối với một ai đáng hận sân,
Không để nội tâm sân khởi dậy,
Vị nào dù lúc giận trong lòng,
Cũng không để lộ cho người thấy,
Người gọi đó là thanh tịnh nhân.
1378. Ūnodaro yo sahate jighacchaṃ danto tapassī mitapānabhojano, āhārahetu na karoti pāpaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.
1378. “Người nào chịu đựng cái đói, có bao tử lưng lửng, là người đã được rèn luyện, có sự khổ hạnh, có thức ăn nước uống bị hạn chế, là người không làm việc ác vì nguyên nhân vật thực, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”
2. Người chịu đói, bụng đau rần,
Ẩn sĩ tự điều phục món ăn,
Không phạm ác hành vì thực phẩm,
Vị này, người gọi bậc Sa-môn.
1379. Khiḍḍaṃ ratiṃ vippajahitva sabbaṃ na cālikaṃ bhāsati kiñci loke, vibhūsanaṭṭhānā virato methunasmā taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.
1379. “Sau khi buông bỏ tất cả việc đùa giỡn và lạc thú, là người không nói sai trái về bất cứ điều gì ở thế gian, là người đã lánh xa việc trang điểm, đã lánh xa việc đôi lứa, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”
3. Sau khi bỏ mọi thứ vui chơi,
Không nói lời gian dối giữa đời,
Vị ấy ghét xa hoa, nhục dục,
Như vầy người gọi Sa-môn rồi.
1380. Pariggahaṃ lobhadhammañca sabbaṃ yo ve pariññāya paribbajeti, dantaṃ ṭhitattaṃ amamaṃ nirāsaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.
1380. “Thật vậy, người nào, sau khi hiểu biết toàn diện, hoàn toàn từ bỏ tất cả vật sở hữu và pháp tham lam, là người đã được rèn luyện, có bản tánh ổn định, không chấp là của ta, không có sự dính mắc, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”
4. Bậc toàn trí bỏ hết hoàn toàn,
Mọi sở hữu và mọi dục tham,
Tự chế, kiên tâm, vô ngã chấp,
Vị này người gọi bậc Sa-môn.
1381. Pucchāma kattāraṃ anomapaññaṃ gāthāsu no viggaho atthi jāto, chindajja kaṅkhaṃ vicikicchitāni tayajja kaṅkhaṃ vitaremu sabbe.
1381. “Chúng tôi hỏi vị phân xử, vị có trí tuệ không thiếu sót. Có sự cãi vã đã sanh khởi giữa chúng tôi về các kệ ngôn. Hôm nay, ngài hãy chặt đứt sự nghi hoặc và các hoài nghi. Hôm nay, nhờ ngài tất cả chúng tôi có thể dẹp bỏ sự nghi hoặc.”
5. Xin hỏi đại thần thượng trí minh,
Trong khi đàm đạo, khởi phân tranh,
Nhờ khanh xét, giải nghi nan ấy,
Hội chúng thoát nghi hoặc bởi khanh!
1382. Ye paṇḍitā atthadassā bhavanti bhāsanti te yoniso tattha kāle, kathaṃ nu gāthānaṃ abhāsitānaṃ atthaṃ nayeyyuṃ kusalā janinda.
1382. “Các vị nào là các bậc sáng suốt, có khả năng nhìn thấy ý nghĩa, các vị ấy nói đúng đường lối theo thời điểm của sự việc. Tâu vị chúa của loài người, làm thế nào các bậc thiện xảo có thể nắm được ý nghĩa của các kệ ngôn còn chưa được nói ra?
6. Bậc trí biết chân tướng việc đời,
Nói năng khôn khéo, đúng theo thời,
Nhưng dù hiền trí, làm sao biết,
Ý nghĩa kệ chưa nói với tôi?
1383. Kathaṃ have bhāsati nāgarājā kathaṃ pana garuḷo venateyyo, gandhabbarājā pana kiṃ vadeti kathaṃ pana kurunaṃ rājaseṭṭho.
1383. Thật vậy, vị Chúa của loài rồng nói thế nào? Rồi Kim-sỉ-điểu Venateyya nói thế nào? Thêm nữa, vị Vua của các Càn-thát-bà nói gì? Hơn nữa, đức vua tối cao của xứ Kuru nói thế nào?”
Vương tử Vi-na, Kim sí điểu,
Long vương ấy nói thế nào rồi?
Thác- bà vương, tối cao Hoàng thượng,
Của xứ Câu-lâu, hãy mở lời!
1384. Khantiṃ have bhāsati nāgarājā appāhāraṃ garuḷo venateyyo gandhabbarājā rativippahānaṃ akiñcanaṃ kurunaṃ rājaseṭṭho ’ti.
1384. “Đúng vậy, vị Chúa của loài rồng nói về sự nhẫn nại. Kim-sỉ-điểu Venateyya nói về không đánh đập. Vị Vua của các Càn-thát-bà nói về sự buông bỏ lạc thú. Đức vua tối cao của xứ Kuru nói về vô sở hữu.”
7. Kham nhẫn, Long vương thuyết giảng xong,
Vương tử Vi-na, Sí điểu vương,
Lại thuyết giảng về lòng tốt đẹp,
Thác-bà vương thuyết đoạn trừ tham,
Câu lâu Chúa thượng ly triền cái,
Để đạt đến công hạnh vẹn toàn.
1385. Sabbāni etāni subhāsitāni na hettha dubbhāsitamatthi kiñci, yasmiñca etāni patiṭṭhitāni arāva nābhyā susamohitāni, catubbhi dhammehi samaṅgibhūtaṃ taṃ ve naraṃ samaṇaṃ āhu loke.
1385. “Tất cả các điều ấy đã được khéo nói, bởi vì ở đây không có một điều nào đã được vụng nói. Và các điều ấy được thiết lập ở người nào, tựa như các cây căm khéo được gắn vào trục bánh xe, người nào được đầy đủ bốn pháp, thật vậy, các bậc sáng suốt ở thế gian đã gọi người ấy là Sa-môn.”
8. Tất cả lời này chánh đáng thay,
Không gì sai trái ở nơi này,
Người nào thích hợp lời như thế,
Giống các tăm xe ở trục quay,
Người được gọi Sa-môn chánh hạnh,
Đủ đầy các đức tính trên đây.
1386. Tuvaṃ nu seṭṭho tvamanuttarosi tvaṃ dhammagū dhammavidū sumedho, paññāya pañhaṃ samadhiggahetvā acchecchi dhīro vicikicchitāni, acchecchi kaṅkhaṃ vivikicchitāni cundo yathā nāgadantaṃ kharena.
1386. “Ngài là hạng nhất, ngài là người không ai hơn được, ngài là vị đã đạt đến pháp, là vị hiểu rõ pháp, là bậc thiện trí. Sau khi nắm vững câu hỏi bằng trí tuệ, bậc sáng trí đã chặt đứt các hoài nghi, đã chặt đứt sự nghi hoặc và các hoài nghi, giống như người thợ ngà voi đã cắt đứt ngà voi bằng cây cưa.
9. Khanh là bậc tối thắng, vô song,
Hộ pháp, tinh thông luật, trí nhân,
Khi hiểu vấn đề nhờ trí tuệ,
Với tài khéo cắt mọi nghi nan,
Giống như người thợ ngà voi nọ,
Cắt với lưỡi cưa thật dễ dàng!
1387. Nīluppalābhaṃ vimalaṃ anagghaṃ vatthaṃ imaṃ dhūmasamānavaṇṇaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.
1387. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài tấm vải này, có màu sắc như là làn khói, có sự rực rỡ như đóa sen xanh, không có vết bẩn, vô giá, để cúng dường pháp.
1388. Suvaṇṇamālaṃ satapattaphullaṃ sakesaraṃ ratana sahassamaṇḍitaṃ, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.
1388. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài bông hoa bằng vàng, nở rộ với một trăm cánh hoa, có tua nhụy, được điểm tô với một ngàn viên ngọc, để cúng dường pháp.
1389. Maṇiṃ anagghaṃ ruciraṃ pabhassaraṃ kaṇṭhāvasattaṃ maṇibhūsitaṃ me, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te dhammapūjāya dhīra.
1389. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, này vị sáng trí, ta ban cho ngài viên ngọc ma-ni vô giá, làm thích ý, rực rỡ, được gắn liền ở cổ, được trang điểm với viên ngọc ma-ni, vật sở hữu của ta, để cúng dường pháp.
3. Catuposathikajātakaṃ – Bổn Sanh Bốn Vị Hành Trai Giới
1390. Gavaṃ sahassaṃ usabhañca nāgaṃ ājaññayutte ca rathe dasa ime, pañhassa veyyākaraṇena tuṭṭho dadāmi te gāmavarāni soḷasā ”ti.
1390. Hài lòng với việc giải thích câu hỏi, ta ban cho ngài một ngàn bò cái, một bò mộng, một con voi, mười cỗ xe kéo này đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng, và mười sáu ngôi làng cao quý.”
10. Một ngàn bò cái, trẫm truyền ban,
Một thớt voi, bò đực một chàng,
Mười cỗ xe và đàn ngựa quý,
Thêm mười sáu đệ nhất thôn làng,
Bởi vì trẫm thật đầy hoan hỷ,
Cách giải vấn đề của Trí nhân!
1391. Bahussuto sutadhammosi saṅkha diṭṭhā tayā samaṇabrāhmaṇā ca, athakkhaṇe dassayase vilāpaṃ añño nu ko te paṭimantako mayā.
1391. “Thưa chủ nhân Saṅkha, tôn ông có kiến thức rộng, đã được nghe Giáo Pháp. Tôn ông đã diện kiến các vị Sa-môn và Bà-la-môn. Giờ không phải là lúc tôn ông thể hiện sự mê sảng. Phải chăng có người nào khác đang chuyện trò với tôn ông, ngoài tôi ra?”
1. La-môn Tôn giả, bậc uyên thâm,
Tôn giả vốn đầy đủ thánh tâm,
Ðồ đệ Thánh sư, sao lại phải
Hoài tâm vô cớ nói lầm bầm,
Trong khi chẳng có ai đây cả
Ðối đáp ngoài tôi, lúc luận đàm?
1392. Subbhū subhā suppaṭimuttakambu paggayha sovaṇṇamayāya pātiyā, bhuñjassu bhattaṃ iti maṃ vadeti saddhā cittā tamahaṃ noti brūmi.
1392. “Có nàng tiên nữ với khuôn mặt xinh đẹp, với dáng vẻ thanh tú, khéo phục sức với đồ trang điểm bằng vàng, đã trao ra cái đĩa làm bằng vàng rồi nói với ta bằng niềm tin và tâm hoan hỷ rằng: ‘Ông hãy thọ dụng bữa ăn.’ Ta đã trả lời ‘không’ với nàng ấy.”
2. Xuất hiện Thiên thần rực ánh quang,
Tặng ta tiên phạn để ta ăn,
Cao sang trên đĩa vàng bày sẵn
Ta đáp nàng “không” dạ lạc hoan.
1393. Etādisaṃ brāhmaṇa disva yakkhaṃ puccheyya poso sukhamāsasāno, uṭṭhehi taṃ pañjalikāhi puccha devī nusi tvaṃ uda mānusī nu.
1393. “Thưa vị Bà-la-môn, sau khi nhìn thấy hạng Dạ-xoa như thế ấy, con người đang mong mỏi hạnh phúc có thể yêu cầu. Tôn ông nên đứng lên, chắp tay lại, và hỏi vị ấy rằng: ‘Vậy nàng là nữ thần hay là nữ nhân loại?’”
3. Nếu như người thấy một Thiên thần,
Người hãy yêu cầu một đặc ân
Xin đứng chấp tay van vị ấy,
Cho hay Thiên nữ hoặc phàm nhân?
1394. Yaṃ tvaṃ sukhenābhisamekkhase maṃ bhuñjassu bhattaṃ iti maṃ vadesi, pucchāmi taṃ nāri mahānubhāve devī nusi tvaṃ uda mānusī nu.
1394. “Thưa vị nữ nhân có đại năng lực, bởi vì nàng quan sát tôi với vẻ cảm thông và nói với tôi rằng: ‘Ông hãy thọ dụng bữa ăn.’ Vì thế, tôi xin hỏi nàng rằng: ‘Vậy nàng là nữ thần hay là nữ nhân loại?’”
4. Nương tử nhìn ta vẻ thiết thân,
Bảo ta: “Cần lấy thức này ăn”,
Hỏi nàng cao cả đầy uy lực,
Là nữ nhi hay một nữ thần?
1395. Devī ahaṃ saṅkha mahānubhāvā idhāgatā sāgaravārimajjhe, anukampikā no ca paduṭṭhacittā tameva atthāya idhāgatosmi.
1395. “Này Saṅkha, thiếp là nữ thần có đại năng lực. Thiếp đã đi đến nơi này từ giữa làn nước của đại dương. Là người có lòng thương xót và không có tâm ý xấu xa, thiếp đã đi đến nơi này vì lợi ích của chính ông.
5. Ta, nữ thần uy lực đại cường,
Nơi này vội đến giữa trùng dương,
Tràn đầy từ mẫn, tâm hoan hỷ,
Vì cứu ngài trong bước cuối đường.
1396. Idhannapānaṃ sayanāsanañca yānāni nānā vividhāni saṅkha, sabbassa tyāhaṃ paṭipādayāmi yaṃ kiñci tuyhaṃ manasābhipatthitaṃ.
1396. Này Saṅkha, cơm ăn nước uống, và chỗ nằm ngồi ở nơi này, các phương tiện di chuyển đủ các loại khác nhau, thiếp cung cấp cho ông tất cả, bất cứ điều gì được ông ước nguyện đều là của ông.”
6. Nhìn đây thực phẩm, chốn an lành,
Nhiều loại cỗ xe, đủ dáng hình,
Cho ngài làm chủ quyền tất cả,
Những gì ao ước tự tìm mình.
1397. Yaṃ kiñci yiṭṭhaṃva hutaṃ va mayhaṃ sabbassa no issarā tvaṃ sugatte, sussoṇi subbhū suvilākamajjhe kissa me kammassa ayaṃ vipāko.
1397. “Thưa vị nữ thần có cơ thể xinh xắn, bất cứ vật dâng hiến hay vật cúng tế nào của tôi, nàng là chúa tể của tất cả thiện nghiệp ấy của chúng tôi. Thưa vị nữ thần có cặp mông xinh, có lông mày khéo, có eo thon đẹp, nghiệp nào của tôi mà có được quả thành tựu này?”
7. Thưa, vậy tiên nương chính nữ hoàng,
Nắm quyền bao lễ vật nàng ban,
Mỹ nương yểu điệu, mày thanh tú,
Nghiệp quả nào ta tạo đấy chăng?
1398. Ghamme pathe brāhmaṇa ekabhikkhuṃ ugghaṭṭapādaṃ tasitaṃ kilantaṃ, paṭipādayī saṅkha upāhanāhi sā dakkhiṇā kāmaduhā tavajja.
1398. “Này Bà-la-môn, ông đã trao tặng đôi dép đến vị tỳ khưu bị khát nước, đang mệt nhọc, có bàn chân bị tổn thương ở trên con đường vào mùa nóng. Này Saṅkha, việc cúng dường ấy là nguồn ban phát các điều mong muốn của ông ngày hôm nay.”
8. Trên đường nóng bỏng kẻ đơn thân,
Khát nước, mệt nhừ, lại nhức chân,
Ngài đã dừng, mang tài vật cúng,
Ngày nay lễ ấy được hồng ân.
1399. Sā hotu nāvā phalakūpapannā anavassutā erakavātayuttā, aññassa yānassa na hettha bhūmi ajjeva maṃ moliniṃ pāpayassu.
1399. “Hãy hiện ra chiếc thuyền được tạo thành bởi những tấm ván gỗ, không bị thấm nước, được bám chặt vào làn gió bởi cánh buồm, bởi vì ở nơi đây không là vùng đất cho phương tiện di chuyển nào khác. Hãy giúp cho tôi đến được thành phố Molinī nội trong ngày hôm nay.”
9. Xin chiếc thuyền bằng ván khéo xây,
Thuận buồm xuôi gió, chạy như bay,
Mà không thấm nước trên đường biển
Không thể dùng xe cộ chốn đây,
Xin chở ta về Mo-lí gấp,
Làm sao vừa kịp đúng hôm nay.
4. Saṅkhajātakaṃ – Bổn Sanh Bà-la-môn Saṅkha
1400. Sā tattha vittā sumanā patītā nāvaṃ sucittaṃ abhinimmiṇitvā, ādāya saṅkhaṃ purisena saddhiṃ upānayī nagaraṃ sādhu ramman ”ti.
1400. “Tại nơi ấy, ở giữa biển khơi, vị tiên nữ ấy, với tâm vui vẻ, với thiện ý, được hài lòng, sau khi hóa hiện ra chiếc thuyền được tô màu khéo léo, đã đón rước Saṅkha cùng với người hầu, rồi đã đưa đến thành phố tốt đẹp, đáng yêu.”
10. Thần nữ hân hoan, hạnh phúc tràn,
Làm cho xuất hiện, chiếc thuyền thần,
Ðem San-kha với người hầu cận
Về đến kinh đô đẹp tuyệt trần.
1401. Yo te imaṃ visālakkhiṃ piyaṃ sammillahāsiniṃ, ādāya balā gaccheyya kinnu kayirāsi brāhmaṇa.
1401. “Thưa vị Bà-la-môn, nếu có người dùng võ lực bắt đem đi người phụ nữ có mắt to, đáng yêu, có nụ cười thân thiện của ngài, thì ngài có thể làm gì?”
1. Ví thử người ta bắt quý nương,
Mắt tròn, và cướp khỏi Tôn ông,
Người yêu ngồi đó đang cười nụ,
Ngài sẽ làm gì, hỡi Ðạo nhân?
1402. Uppajja me na mucceyya na me mucceyya jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi khippameva nivāraye.
1402. “Nếu nó khởi lên ở tôi thì nó không thể thoát ra, nó không thể thoát ra khỏi tôi chừng nào tôi còn sống. Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, tôi có thể chặn đứng nó vô cùng nhanh chóng.”
2. Khi đã khởi lên, nó chẳng rời
Chẳng bao giờ nữa, suốt đời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Dập tắt nó thời mới nhú thôi.
1403. Yannu pubbe vikatthittho balamhi va apassito, svājja tuṇhikakodāni saṅghāṭiṃ sibbamacchasi.
1403. “Điều mà ngài đã khoe khoang trước đây, dường như đã được dựa vào sức mạnh. Hôm nay, ngài đây là người im lặng. Giờ này, ngài ngồi may y hai lớp.”
3. Ngài lớn tiếng khoe hay,
Chừng một lát trước đây,
Nay lặng thinh vì giận
Ngài ngồi đó vá may.
1404. Uppajji me na muccittha na me muccittha jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi khippameva nivārayiṃ.
1404. “Nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó đã không thoát ra khỏi tôi chừng nào tôi còn sống. Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, tôi đã chặn đứng nó vô cùng nhanh chóng.”
4. Hễ lúc nào sinh khởi nó rồi,
Chẳng bao giờ nó chịu rời tôi,
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Tôi dập nó thời mới nhỏ nhoi.
1405. Kinte uppajji no mucci kinte no mucci jīvato, rajaṃva vipulā vuṭṭhi katamaṃ tvaṃ nivārayī.
1405. “Cái gì đã khởi lên ở ngài và đã không thoát ra? Cái gì đã không thoát ra khỏi ngài chừng nào ngài còn sống? Tựa như cơn mưa lớn dập tắt bụi bặm, ngài đã chặn đứng cái gì?”
5. Gì đó mà không thể bỏ ngài,
Chẳng bao giờ hết, suốt trong đời?
Như cơn mưa lắng dần tro bụi,
Ngài dập tắt gì lúc nhỏ nhoi?
1406. Yamhi jāte na passati ajāte sādhu passati, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.
1406. “Cái nào khi khởi lên thì con người không nhìn thấy, khi không khởi lên thì con người nhìn thấy rõ ràng, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.
6. Con người không nó, thấy minh quang,
Có nó, mù đui trước nẻo đàng,
Nó khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
1407. Yena jātena nandanti amittā dukkhamesino, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.
1407. Do cái nào khởi lên mà những kẻ thù, những kẻ tìm kiếm sự khổ đau, được hân hoan, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.
7. Ðiều gì làm thích thú cừu nhân,
Kẻ muốn tâm ta phải khổ buồn,
Phát khởi trong ta không thoát được,
Hận sân, nuôi dưỡng bởi si cuồng.
1408. Yasmiñca jayamānasmiṃ sadatthaṃ nāvabujjhati, so me uppajji no mucci kodho dummedhagocaro.
1408. Và khi cái nào đang được khởi lên khiến con người không còn nhận biết việc có sự lợi ích, cái ấy là sự giận dữ; nó đã khởi lên ở tôi và đã không thoát ra, nó có đối tượng là những kẻ ngu muội.
8. Cái điều, nếu nổi dậy trong mình.
Che khuất người ta trước hạnh lành,
Ðã phát trong ta không thoát được,
Căm hờn, nuôi dưỡng bởi vô minh.
1409. Yenābhibhūto kusalaṃ jahāti parakkare vipulañcāpi atthaṃ, sa bhīmaseno balavā pamaddī kodho mahārāja na me amuccatha.
1409. Bị chế ngự bởi cái nào, con người từ bỏ việc thiện, và còn bỏ bê việc lợi ích lớn lao, cái ấy có đạo quân ghê rợn, là kẻ hủy diệt có sức mạnh, là sự giận dữ, tâu đại vương, nó đã không thoát ra khỏi tôi.
9. Ðiều làm tổn phước đức vô song,
Khiến kẻ bị lừa bỏ lập công,
Mãnh liệt, phá tan, đầy khủng khiếp,
Không rời ta nữa, ấy là sân.
1410. Kaṭṭhasmiṃ matthamānasmiṃ pāvako nāma jāyati, tameva kaṭṭhaṃ ḍahati yasmā so jāyate gini.
1410. Khi thanh gỗ đang được cọ xát thì có cái gọi là lửa sanh ra. Chính cái ấy đốt cháy thanh gỗ, từ đó, nó sanh ra ngọn lửa.
10. Ngọn lửa lên cao, sẽ lớn hơn,
Nếu mỗi nhiên liệu được khơi tròn,
Bởi vì ngọn lửa lên cao mãi,
Nhiên liệu tự mình phải cháy luôn.
1411. Evaṃ mandassa posassa bālassa avijānato, sārambhā jāyate kodho sopi teneva ḍayhati.
1411. Tương tự như vậy, sự giận dữ khởi lên từ sự nóng nảy của kẻ đần độn, ngu dốt, không nhận thức, kẻ ngu dốt ấy cũng bị đốt nóng bởi chính sự giận dữ.
11. Cũng vậy trong tâm trí kẻ đần,
Người không có thể nhận chân ra rằng
Phát sinh phẫn nộ từ tranh cãi
Bởi vậy thanh danh phải bại tàn.
1412. Aggīva tiṇakaṭṭhasmiṃ kodho yassa pavaḍḍhati, nihīyati tassa yaso kāḷapakkheva candimā.
1412. Ví như ngọn lửa gia tăng ở cỏ và củi, kẻ nào có sự giận dữ gia tăng, thì danh tiếng của kẻ ấy bị sút giảm, tựa như mặt trăng thuộc hạ huyền bị khuyết dần.
12. Phẫn nộ nào tăng tựa lửa hừng
Với mồi than củi cháy bừng bừng,
Như trăng nửa tháng đêm trời tối,
Ðức hạnh tiêu hao, hủy hoại dần.
5. Cullabodhijātakaṃ – Bổn Sanh Tiểu Giác Ngộ
1413. Anindho dhūmaketuva kodho yassūpasammati, āpūrati tassa yaso sukkapakkheva candimā ”ti.
1413. Ví như ngọn lửa không có nhiên liệu, người nào có sự giận dữ được yên lặng, thì danh tiếng của người ấy trở nên đầy đủ, tựa như mặt trăng thuộc thượng huyền được tròn dần.”
13. Người nào chế ngự được lòng sân,
Như lửa mà không có củi than,
Như trăng nửa tháng trời dần sáng,
Công đức người kia cứ mãi tăng.
1414. Sattāhamevāhaṃ pasannacitto puññatthiko acariṃ brahmacariyaṃ, athāparaṃ yaṃ caritaṃ mamayidaṃ vassāni paññāsa samādhikāni akāmako vāpi ahaṃ carāmi,
etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.
1414. “Là người mong mỏi phước báu, có tâm tịnh tín, tôi đã thực hành Phạm hạnh trong bảy ngày. Rồi việc thực hành khác nữa của tôi là năm mươi năm về thiền định. Mặc dầu không có sự mong muốn, tôi cũng vẫn thực hành (Phạm hạnh). Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, bé trai Yaññadatta hãy sống.”
1. Bảy ngày tâm trí thật thong dong,
Thanh tịnh sống đời ước lập công,
Từ đó năm mươi năm ẩn dật,
Chú tâm ta bộc bạch lời chân;
Nơi đây ta sống dù không muốn,
Lời thật này mong tạo phước ân,
Khiến nọc độc không còn hiệu lực,
Cậu trai này sẽ tỉnh lên dần.
415. Yasmā dānaṃ nābhinandiṃ kadāci disvānāhaṃ atithiṃ vāsakāle, na cāpi me appiyataṃ aveduṃ bahussutā samaṇā brahmanā ca akāmako vā hi ahaṃ dadāmi, etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.
1415. “Mặc dù tôi không bao giờ thích thú việc bố thí khi tôi nhìn thấy người khách lạ vào thời điểm họ đi tìm chỗ ngụ, và ngay cả các vị Sa-môn và Bà-la-môn học rộng cũng đã không biết được tâm trạng không ưa thích của tôi. Mặc dầu không có sự mong muốn, tôi cũng vẫn bố thí. Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, con trai Yaññadatta hãy sống.”
2. Chẳng chút quan tâm vật cúng dường
Ta đem đãi mọi khách qua đường,
Song người hiền trí chưa hề biết
Ta đã tự kiềm chế bản thân;
Dù bố thí, ta lòng miễn cưỡng,
Cầu mong lời thật tạo hồng ân,
Làm cho nọc độc thành vô hiệu,
Thằng bé này đây được tỉnh dần.
1416. Āsīviso tāta pahūtatejo yo taṃ adaṃsi bilarā udicca tasmiñca me appiyatāya ajja, pitarañca te natthi koci viseso etena saccena suvatthi hotu hataṃ visaṃ jīvatu yaññadatto.
1416. “Này con thương, con rắn độc có nhiều oai lực đã cắn con sau khi phóng ra khỏi hang, và tâm trạng không ưa thích của mẹ ngày hôm nay đối với con rắn cũng như đối với cha con là không có gì khác biệt. Do sự chân thật này, cầu mong có sự an lành, chất độc được tiêu tan, con trai Yaññadatta hãy sống.”
3. Rắn nọ cắn con mới nãy giờ,
Nằm trong lỗ ấy hỡi con thơ,
Và cha con đó, này ta bảo,
Là một, trong tim mẹ hững hờ,
Mong sự thật này mang phươc đức,
Nọc tan, con trẻ tỉnh hồn mơ!
1417. Santā dantā yeva paribbajanti aññatra kaṇhā anakāmarūpā, dīpāyana kissa jigucchamāno akāmako carasi brahmacariyaṃ.
1417. “Các bậc an tịnh, đã được rèn luyện, xuất gia (lìa thế tục), không có vẻ là không mong muốn, ngoại trừ vị Kaṇhā. Thưa ngài Dīpāyana, trong khi ngài chán ghét, không mong muốn (việc tu tập), vì lý do gì ngài vẫn thực hành Phạm hạnh?”
4. Người ta xuất thế, trí quang minh,
Thuần thục, tâm không chút bất bình,
Trừ bạn Kan-ha, sao thối chất,
Chẳng mong tiến bước đạo tu hành?
1418. Saddhāya nikkhamma punaṃ nivatto so eḷamūgova bālo vatāyaṃ, etassa vādassa jigucchamāno akāmako carāmi brahmacariyaṃ, viññuppasatthañca satañca ṭhānaṃ
evampahaṃ puññakaro bhavāmi.
1418. “Sau khi ra đi vì niềm tin, kẻ nào quay trở lại (cuộc sống thế tục), kẻ ấy tựa như người điếc và câm; người này quả thật là kẻ ngu si! Bởi vì lời nói ấy, trong khi ta chán ghét, không mong muốn (việc tu tập), ta vẫn thực hành Phạm hạnh. Còn có sự ca ngợi của những người hiểu biết và địa vị dành cho những người tốt; dầu là như vậy, ta cũng là người tạo được nghiệp thiện.
5. Xuất thế rồi quay lại cõi trần,
Chắc người ta nghĩ: “Kẻ ngu đần!”,
Chính điều này khiến ta lùi bước,
Ta vẫn hành trì đạo Thánh nhân
Tuy vậy ta không còn phát nguyện,
Ta theo Thánh đạo bởi nguyên nhân:
Ðược lời khen ngợi từ người trí,
Là cách người hiền thiện trú thân.
1419. Samaṇe tuvaṃ brāhmaṇe addhike ca santappayāsi annapānena bhikkhaṃ, opānabhūtaṃ ca gharaṃ tavayidaṃ annena pānena upetarūpaṃ, atha kissa vādassa jigucchamāno akāmako dānamimaṃ dadāsi.
1419. Ông đã làm hài lòng các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, và các khách lữ hành về vật thực với cơm ăn và nước uống. Và ngôi nhà này của ông có hình thức như là cái giếng nước đầy đủ cơm ăn và nước uống. Vậy thì, bởi vì lời nói gì mà trong khi ông chán ghét, không mong muốn (việc bố thí), ông vẫn ban phát việc bố thí này?”
6. Nhà bạn đây như thể quán ăn,
Chứa đồ ẩm thực để cung dâng
La-môn, trí giả cùng du khách,
Thỏa mãn cơn khao khát, đói lòng,
Xong sợ điều gì gây tiếng xấu,
Nên lòng miễn cưỡng lại cho không.
1420. Pitaro ca me āsuṃ pitāmahā ca saddhā ahū dānapatī vadaññū taṃ kullavattaṃ anuvattamāno, māhaṃ kule antimagandhino ahuṃ etassa vādassa jigucchamāno akāmako dānamimaṃ dadāsi.
1420. “Cha và ông nội của tôi đã là những người có niềm tin, đã là những người thí chủ rộng lượng. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, chớ để tôi trở thành kẻ hủ bại nhất trong gia tộc! Bởi vì lời nói ấy, trong khi tôi chán ghét, không mong muốn (việc bố thí), tôi vẫn ban phát việc bố thí này.”
7. Giữ gìn Thánh hạnh các cha ông,
Là thí chủ ban phát rộng lòng,
Theo gót xưa, ta đầy cẩn trọng,
Sinh thời đường lối của gia tông,
Sợ mình sẽ biến thành suy thoái,
Nên miễn cưỡng lòng vẫn biếu không.
1421. Dahariṃ kumāriṃ asamatthapaññaṃ yaṃ tānayiṃ ñātikulā sugatte na cāpi me appiyataṃ avedi, aññatra kāmā paricārayantī atha kena vaṇṇena mayā te hoti saṃvāsadhammo ahu evarūpo.
1421. “Hỡi cô nàng có cơ thể xinh xắn, ta đã rước nàng, người thiếu nữ trẻ trung có trí tuệ còn chưa đầy đủ, từ thân quyến gia tộc. Nàng cũng đã không cho biết về tình trạng không yêu mến đối với ta, trong khi nàng hầu hạ ta không có sự mong muốn. Vậy bởi vì lý do gì mà tình trạng sống chung của nàng với ta đã có hình thức như vậy?”
8. Khi còn thiếu nữ trí ngây thơ,
Ta cưới bà về tự nhạc gia,
Bà chẳng bảo lòng ta lãnh đạm
Làm sao bà sống cả đời bà,
Không tình gắn bó, không thương mến,
Bà đã vì đâu ở lại nhà,
Hỡi quí phu nhân đầy yểu điệu,
Sống đời lạnh lẽo thế cùng ta.
1422. Ārā dūre na idha kadāci atthi paramparā nāma kule imasmiṃ taṃ kullavattaṃ anuvattamānā, māhaṃ kule antimagandhinī ahuṃ etassa vādassa jigucchamānā akāmikā baddhacarāsmi tuyhaṃ.
1422. “Từ thời xa xưa, không bao giờ có việc gọi là thay đổi chồng ở gia tộc này. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, chớ để thiếp trở thành kẻ kẻ hủ bại nhất trong gia tộc! Bởi vì lời nói ấy, trong khi thiếp chán ghét, không mong muốn, thiếp vẫn là người làm công việc hầu hạ đối với chàng.
9. Chẳng phải là nề nếp cổ phong,
Cho người làm vợ lại thay chồng,
Chẳng bao giờ thế, nên tôi vẫn,
Giữ thói lề kia, kẻo ngại rằng
Tôi bị người xem là thoái hóa,
Chính niềm lo sợ tiếng đồn hung,
Khiến tôi ở lại và chung sống
Chẳng có tình yêu, vẫn lạnh lùng.
6. Kaṇhadīpāyanajātakaṃ – Bổn Sanh Ẩn Sĩ Kaṇhadīpāyana
1423. Maṇḍavya bhāsissaṃ abhāsaneyyaṃ taṃ khamyataṃ puttahetu mamajja, puttapemā na idha paratthi kiñci so no ayaṃ jīvati yaññadatto ”ti.
1423. Này chàng Maṇḍavya, thiếp đã nói lời không nên nói. Mong chàng hãy tha thứ điều ấy cho thiếp hôm nay vì nguyên nhân của đứa con trai. Ở đây, không có bất cứ cái gì khác so với tình thương dành cho đứa con trai. Lời nói ấy đối với chúng ta là Yaññadatta này được sống.”
10. Giờ đây thiếp lỡ nói rồi,
Những điều chẳng đáng nên lời nói ra
Vì con, mong ước thứ tha,
Không gì hơn được mẹ cha nồng tình,
Yan-na, con của chúng mình
Trước đây đã chết, hồi sinh bây giờ!
1424. Na cāhametaṃ jānāmi kovāyaṃ kassa cāti vā, yathā sākho vadī evaṃ nigrodha kinti maññasi.
1424. “‘Ta không biết người này. Người này là ai hay là thuộc về ai?’ Giống như Sākha đã nói, này bạn Nigrodha, như vậy bạn nghĩ thế nào?
1. Người đó là ai, ta chẳng hay,
Ai là thân phụ của người đây,
Nhành còn hỏi: Nó là ai đó?
Ða hỡi, nghĩ sao trước việc này?
1425. Tato galavinītena purisā nīhariṃsu maṃ, datvā mukhapahārāni sākhassa vacanaṃ karā.
1425. Do bị nắm lấy ở cổ, các gia nhân, những kẻ tuân hành lệnh của Sākha, đã quẳng tôi ra khỏi nơi đó, sau khi đã cho những cú đấm vào mặt của tôi.
2. Ðầy tớ Nhành kia cứ y lời
Ðấm, thoi, tát, đánh khắp người tôi,
Rồi còn chụp lấy tôi vào cổ,
Từ đó lôi tôi quẳng phía ngoài.
1426. Etādisaṃ dummatinā akataññūna dubbhinā, kataṃ anariyaṃ sākhena sākhinā te janādhipa.
1426. Tâu quân vương, việc không cao thượng như thế ấy đã được thực hiện bởi kẻ có tâm xấu xa, kẻ vô ơn bạc nghĩa Sākha, bạn của bệ hạ.”
3. Phản bội như vầy đối với tôi,
Chỉ người độc ác mới làm thôi,
Vong ân bạc nghĩa là ô nhục,
Gã cũng bạn ngài, Chúa thượng ôi!
1427. Na vāhametaṃ jānāmi napi me koci saṃsati, yamme tvaṃ samma akkhāsi sākhena kaḍḍhanaṃ kataṃ.
1427. “Này khanh, Trẫm không biết việc này, và cũng không ai tấu cho trẫm việc mà khanh vừa nói với trẫm, là việc kéo đi do Sākha đã làm.”
4. Ta chẳng hề nghe, cũng chẳng hay
Một ai từng nói chuyện như vầy,
Xấu xa như bạn đang tường thuật,
Nhành ấy vừa làm tại chốn đây.
1428. Sakhīnaṃ sājīvakaro mama sākhassa cūbhayaṃ, tvaṃ no issariyaṃ dātā manusessu mahaggataṃ, tayamhā labhitā iddhi ettha me natthi saṃsayo.
1428. Khanh là người tạo ra cuộc sống cho bạn bè, cho cả hai người là trẫm và Sākha. Khanh là người ban cho chúng tôi vương quyền, địa vị quan trọng ở loài người. Quyền uy của chúng tôi đã đạt được là do bạn, về việc này trẫm không có hoài nghi.
5. Bạn cùng ta, sống với Sàk-kha,
Ðồng bọn chí tình thưở đã qua,
Bạn đã giành phần cho mỗi một,
Hướng quyền vương tước, tặng hai ta,
Vinh quang ta được là nhờ bạn,
Còn có gì nghi hoặc nữa mà.
1429. Yathāpi bījaṃ aggismiṃ ḍayhati na virūhati, evaṃ kataṃ asappurise nassati na virūhati.
1429. Cũng giống như hạt giống bị đốt cháy ở ngọn lửa thì không nảy mầm, tương tự như vậy, việc đã làm cho người xấu thì bị tiêu hoại, không tăng trưởng.
6. Khi hạt ném trong ngọn lửa hồng,
Cháy rồi, hạt chẳng thể gieo trồng
Ta làm việc thiện cho người ác,
Cũng vậy, nó tàn lụi diệt vong.
1430. Kataññumhi ca posamhi sīlavante ariyavuttine, sukhette viya bījāni kataṃ tamhi na nassati.
1430. Còn ở người biết ơn, có giới, có hành vi cao thượng, thì việc đã làm cho người ấy không bị tiêu hoại, ví như các hạt giống được gieo ở thửa ruộng tốt.”
7. Chúng chẳng như nhiều kẻ biết ơn,
Những người đức hạnh, bậc hiền lương,
Ðất lành, hạt chẳng hề quăng bỏ,
Như việc làm cho các thiện nhơn.
1431. Imañca jammaṃ nekatikaṃ asappurisacintakaṃ, hanantu sākhaṃ satthīhi nāssa icchāmi jīvitaṃ.
1431. “Các khanh hãy dùng các cây giáo giết chết gã Sākha hạ tiện này, kẻ lường gạt, kẻ có suy nghĩ của tiện nhân, trẫm không muốn gã này sống.”
8. Tóm tên hèn hạ bội ân này,
Tư tưởng nó đà xấu ác thay,
Ðâm nó! Vì ta cho nó chết,
Nghĩa gì đời nó với ta đây?
1432. Khamyatassa mahārāja pāṇā duppaṭiānayā, khama deva asappurisassa nāssa icchāmahaṃ vadhaṃ.
1432. “Tâu đại vương, xin hãy tha thứ cho kẻ này, bởi vì mạng sống (của người đã chết) là khó lấy lại. Tâu bệ hạ, xin ngài tha thứ cho kẻ xấu, thần không mong muốn cái chết của gã này.”
9. Ðại vương, mong mở lượng từ bi,
Thật khó tìm đời sống mất đi,
Chúa thượng dung tha cho nó sống,
Thần mong thằng khốn chẳng sầu chi.
7. Nigrodhajātakaṃ – Bổn Sanh Vua Nigrodha
1433. Nigrodhameva seveyya na sākhamupasaṃvase, nigrodhasmiṃ mataṃ seyyo yañce sākhasmi jīvitan ”ti.
1433. “Con nên phục vụ chỉ riêng Nigrodha, chớ có sống thân cận với Sākha. Thà bị chết ở nơi Nigrodha còn tốt hơn nếu phải sống cùng Sākha.”
10. Ta cần sống với Ni-gro-dha
Chẳng tốt gì hầu hạ Sà-kha,
Nếu phải sống cùng Nhành, đại tướng,
Thà nên chịu chết với vua Ða.
1434. Na takkaḷā santi na ālupāni na biḷāliyo na kalambāni tāta, eko araññamhi susānamajjhe kimatthiko tāta khaṇāsi kāsuṃ.
1434. “Thưa cha, không có củ takkaḷa, không có củ ālupa, không có củbiḷāli, không có củ kalamba. Thưa cha, một mình ở trong rừng, giữa nơi mộ địa, cha đào cái hố vì mục đích gì?”
1. Chẳng rau để luộc, cũng không hành,
Chẳng bạc hà, cây để nấu canh,
Nếu chẳng cần, sao cha bới đất
Một mình, trong nghĩa địa rừng xanh?
1435. Pitāmaho tāta sudubbalo te anekavyādhīhi dukhena phuṭṭho, tamajjahaṃ nikhaṇissāmi sobbhe na hissa taṃ jīvitaṃ rocayāmi.
1435. “Này con, bị tác động bởi sự khổ đau do nhiều căn bệnh, ông nội của con có sức khỏe rất kém. Hôm nay, cha sẽ chôn ông ở trong huyệt, bởi vì cha không vui thích khi ông nội có cuộc sống như thế ấy.”
2. Ông nội già nua, quá yếu gầy,
Do nhiều bệnh hoạn, khổ tràn đầy,
Cha chôn ông nội trong mồ đó,
Cha chẳng muốn ông sống thế này.
1436. Saṅkappametaṃ paṭiladdha pāpaṃ accāhitaṃ kamma karosi luddaṃ, mayāpi tāta paṭilacchase tuvaṃ etādisaṃ kamma jarūpanīto, taṃ kullavattaṃ anuvattamāno
ahampi taṃ nikhaṇissāmi sobbhe.
1436. “Cha gây nên nghiệp vô cùng tai hại, tàn bạo, sau khi đạt đến ý định độc ác ấy. Thưa cha, cha cũng sẽ nhận lãnh nghiệp như thế ấy do con, khi cha đã già. Trong khi tiếp nối truyền thống ấy của gia tộc, con cũng sẽ chôn cha ở trong huyệt.”
Cha cầu việc ấy, tội đà gây,
Vì việc làm này độc ác thay!
3. Con sẽ thờ cha lúc tuổi già
Như cha đối xử với ông nhà,
Theo phong tục ấy trong gia tộc,
Con cũng chôn cha dưới hố mà.
1437. Pharusāhi vācāhi pakubbamāne āsajja maṃ tvaṃ vadase kumāra, putto mama orasako samāno ahitānukampi me tvaṃsi putta.
1437. “Này con trẻ, trong khi làm vậy, con đã công kích và nói với cha bằng những lời nói độc ác. Này con trai, trong khi là con trai ruột của cha, con cũng đã không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha.”
4. Thằng bé nói lời ác nghiệt thay,
Ông cha sao mắng mỏ như vầy!
Nghĩ rằng con trẻ rầy la bố,
Với bạn chí tình, tệ lắm đây!
1438. Na tāhaṃ tāta ahitānukampī hitānukampi te ahaṃpi tāta, pāpañca taṃ kamma pakubbamānaṃ arahāmi no vārayituṃ tato hi.
1438. “Thưa cha, không phải là con không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Thưa cha, con cũng có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Trong khi cha đang làm hành động độc ác ấy, con có khả năng để cản ngăn chúng ta khỏi làm công việc ấy.”
5. Con không tồi tệ hoặc hung tàn,
Con đối với cha, dạ thiết thân,
Nhưng việc này cha làm đại ác,
Sức nào gỡ lại, nếu sai lầm?
1439. Yo mātaraṃ pitaraṃ vā vasiṭṭha adūsake hiṃsati pāpadhammo, kāyassa bhedā abhisamparāyaṃ asaṃsayaṃ so nirayaṃ pareti.
1439. Này Vasiṭṭha, kẻ nào có bản tánh độc ác, hãm hại mẹ hoặc cha, những người không đồi bại, do sự hoại rã của thân, vào kiếp kế tiếp, kẻ ấy sẽ đi đến địa ngục một cách chắc chắn.
6. Người ác ý làm, hỡi Vat-tha,
Hại người vô tội, mẹ cùng cha,
Ðến khi người ấy thân vong hoại,
Ðịa ngục phải vào, chắc chẳng xa.
1440. Yo mātaraṃ pitaraṃ vā vasiṭṭha annena pānena upaṭṭhahāti, kāyassa bhedā abhisamparāyaṃ asaṃsayaṃ so sugatiṃ pareti.
1440. Này Vasiṭṭha, người nào phụng dưỡng mẹ hoặc cha với cơm ăn và nước uống, do sự hoại rã của thân, vào kiếp kế tiếp, kẻ ấy sẽ đi đến cảnh giới an vui một cách chắc chắn.”
7. Người dùng cơm nước, hỡi Vat-tha,
Ðem phụng dưỡng luôn mẹ với cha,
Người ấy đến khi thân hủy hoại,
Sẽ lên Thiên giới hiển nhiên mà.
1441. Na me tvaṃ putta ahitānukampī hitānukampi me tvaṃsi putta, ahañca taṃ mātarā vuccamāno etādisaṃ kamma karomi luddaṃ.
1441. “Này con trai, không phải là cha không có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của con. Này con trai, con cũng có lòng thương tưởng đến sự lợi ích của cha. Và cha, trong khi bị mẹ của con xúi giục, cha mới gây nên nghiệp tàn bạo như thế ấy.”
8. Thấy con không tàn nhẫn, vong ơn,
Ðối với cha đầy dạ mến thương,
Chính bởi cha vâng lời của mẹ,
Ðịnh làm việc ác thật kinh hồn.
1442. Yā te sā bhariyā anariyarūpā mātā mamesā sakiyā janetti, niddhāpayetaṃ sakā agārā aññampi te sā dukhamāvaheyya.
1442. “Người vợ của cha có vẻ không thánh thiện. Bà ấy là mẹ của con, là người mẹ ruột. Cha nên đuổi bà ấy ra khỏi nhà của mình. Bà ấy còn có thể đem lại cho cha sự khổ đau khác nữa.”
9. Vợ cha là ác phụ vô lương,
Bà đã sinh con, chính mẹ con,
Ta hãy đuổi bà ra khỏi cửa,
Sợ bà gây việc khác cha buồn.
8. Takkalajātakaṃ – Bổn Sanh Củ Takkaḷa
1443. Yā te sā bhariyā anariyarūpā mātā mamesā sakiyā janetti, dantā kareṇūva vasūpanītā sā pāpadhammā punarāvajātū ”ti.
1443. “Người vợ của cha có vẻ không thánh thiện. Bà ấy là mẹ của con, là người mẹ ruột. Tựa như con voi cái đã được huấn luyện, đã được khép vào kỷ cương, hãy cho người dàn bà có bản tánh xấu xa ấy trở về nhà.”
10. Bà vợ cha kìa, bạc ác thay,
Người sinh con trẻ, chính là đây,
Như voi được luyện rất thuần thục,
Cho trở lui, người tội lỗi này.
1444. Kinte vataṃ kimpana brahmacariyaṃ kissa suciṇṇassa ayaṃ vipāko, akkhāhi me brāhmaṇa etamatthaṃ kasmā hi tumhaṃ daharā na mīyare.
1444. “Phận sự gì của ngài, và Phạm hạnh gì, thiện hạnh gì đem lại quả thành tựu này? Thưa Bà-la-môn, xin ngài hãy giải thích cho tôi về sự việc này, vì sao những người trẻ của ngài không bị chết (lúc còn trẻ)?”
1. Tục lệ nào hay Thánh đạo nào
Quả này do thiện nghiệp từ đâu?
Bà-la-môn, nói ta duyên cớ
Người trẻ trong dòng chẳng chết sao?
1445. Dhammaṃ carāma na musā bhaṇāma pāpāni kammāni vivajjayāma, anariyaṃ parivajjemu sabbaṃ tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1445. “Chúng tôi thực hành thiện pháp, chúng tôi không nói lời dối trá, chúng tôi từ bỏ hẳn các việc làm độc ác, chúng tôi lánh xa tất cả việc không thánh thiện; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).”
2. Ta không lời dối, sống hiền chân,
Mọi ác nghiệp xa lánh, chẳng gần,
Ðiều bất thiện ta đều tránh cả,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1446. Suṇoma dhammaṃ asataṃ sataṃ ca na cāpi dhammaṃ asataṃ rocayāma, hitvā asante na jahāma sante tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1446. Chúng tôi nghe giáo lý của những kẻ không tốt và của những vị tốt, những chúng tôi không vui thích giáo lý của những kẻ không tốt. Sau khi từ bỏ những kẻ không tốt và không từ bỏ những vị tốt; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
3. Nghe việc người ngu lẫn trí nhân,
Việc người ngu trí chẳng quan tâm,
Ta theo bậc trí, ngu ta bỏ,
Nên chẳng ai người chết giữa xuân.
1447. Pubbeva dānā sumanā bhavāma dadampi ce attamanā bhavāma, datvāpi ce nānutappāma pacchā tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1447. Ngay trước việc bố thí, chúng tôi vui mừng; và trong lúc bố thí, chúng tôi hoan hỷ; bố thí xong, chúng tôi không hối tiếc sau đó; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
4. Trước khi bố thí, dạ hân hoan,
Lòng thật vui mừng lúc phát phân,
Khi bố thí xong, không hối tiếc,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1448. Samaṇe mayaṃ brāhmaṇe addhike ca vaṇibbake yācanake daḷidde, annena pānena abhitappayāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1448. Chúng tôi làm hài lòng các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, các khách lữ hành, những người cùng khổ, những người ăn xin, những người nghèo đói với cơm ăn và nước uống; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
5. Ta mời đám lữ khách, La-môn,
Khất sĩ, Sa-môn, mọi kẻ cần,
Ta đãi uống, ăn, người đói khát,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1449. Mayañca bhariyā nātikkamāma amhe ca bhariyā nātikkamanti, aññatra tāhi brahmacariyaṃ carāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1449. Chúng tôi không phản bội những người vợ, và những người vợ không phản bội chúng tôi, ngoài những người vợ ấy ra, chúng tôi gìn giữ sự thanh khiết (đối với những người phụ nữ khác); chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
6. Cưới vợ, không khao khát vợ người,
Giữ lời loan phụng đã thề bồi,
Vợ hiền tiết hạnh tòng phu cả,
Nên các con không sớm bỏ đời.
1450. Pāṇātipātā viramāma sabbe loke adinnaṃ parivajjayāma, amajjapā no ca musā bhaṇāma tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1450. Tất cả chúng tôi chừa bỏ việc giết hại mạng sống, chúng tôi lánh xa việc trộm cắp ở thế gian, không có việc uống chất say, và không có việc chúng tôi nói dối; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
1451. Etāsu ce jāyare suttamāsu medhāvino honti pahūtapaññā, bahussutā vedaguno ca honti tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1451. Những đứa con sanh ra từ những người phụ nữ tuyệt vời ấy là những người thông minh, có nhiều trí tuệ, học rộng, và hiểu biết sâu sắc; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
7. Con được sinh từ vợ chính chuyên,
Tài cao, học rộng, xứng danh hiền,
Vệ-đà thông thạo, con toàn hảo,
Nên chẳng lìa đời giữa thiếu niên.
1452. Mātāpitā ca bhaginī bhātaro ca puttā ca dārā ca mayañca sabbe, dhammaṃ carāma paralokahetu tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1452. Những người mẹ, những người cha, những chị em gái, những anh em trai, những người con trai, những người vợ, và tất cả chúng tôi thực hành thiện pháp vì nguyên nhân của đời sau; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
8. Gắng làm chân chánh đạt cao thiên,
Sống vậy, từ cha đến mẹ hiền,
Ðến mọi gái trai, anh chị nữa,
Nên không ai chết giữa thanh niên.
1453. Dāsā ca dasso anujīvino ca paricārakā kammakarā ca sabbe, dhammaṃ caranti paralokahetu tasmā hi amhaṃ daharā na mīyare.
1453. Các tôi trai, các tớ gái, và những người sống phụ thuộc, những người hầu cận, và những người làm công, tất cả đều thực hành thiện pháp vì nguyên nhân của đời sau; chính vì thế, những người trẻ của chúng tôi không bị chết (lúc còn trẻ).
9. Mong cầu thiên giới, các gia nhân,
Trai gái thảy đều sống thiện lương,
Ngay bọn nô tỳ thấp kém nhất,
Nên không ai chết giữa thanh xuân.
1454. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ dhammo suciṇṇo sukhamāvahāti, esānisaṃso dhamme suciṇṇe na duggatiṃ gacchati dhammacārī.
1454. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp. Thiện pháp khéo được thực hành đem lại sự an lạc. Điều này là quả báu khi thiện pháp khéo được thực hành: Người có sự thực hành thiện pháp không đi đến cảnh giới khổ đau.
10. Chánh đạo cứu ai hướng chánh chân,
Khéo hành Chánh đạo đạt hồng ân,
Phúc này ban tặng người làm chánh,
Người chánh không vào chốn khổ thân.
9. Mahādhammapālajātakaṃ – Đại Bổn Sanh Dhammapāla
1455. Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ chattaṃ mahantaṃ viya vassakāle, dhammena gutto mama dhammapālo aññassa aṭṭhīni sukhī kumāro ”ti.
1455. Thật vậy, thiện pháp hộ trì người có sự thực hành thiện pháp, ví như chiếc lọng to lớn bảo vệ con người vào thời điểm của cơn mưa. Con trai Dhammapāla của tôi được bảo vệ bởi thiện pháp; các khúc xương là của người khác, con trai của tôi được an vui.”
11. Ðạo đức hộ phò bậc chánh nhân,
Như cây che bóng giữa mưa tràn,
Thằng con sống được nhờ hành thiện,
Tâm thiện cho người Hộ Pháp-an;
Còn đó là xương khô kẻ khác,
Ðống xương Tôn giả mới vừa mang.
1456. Nāsmase katapāpamhi nāsmase alikavādine, nāsmasattaṭṭhapaññamhi atisantepi nāsmase.
1456. “Không nên tin cậy người làm ác, không nên tin cậy người nói không thật, không nên tin cậy người chỉ biết lợi ích của bản thân, thậm chí không nên tin cậy người quá an tịnh.
1. Ðừng đặt lòng tin bọn dối lừa,
Những ai chỉ biết lời riêng tư,
Hoặc người đã phạm nhiều điều ác,
Những kẻ tỏ ra quá phụng thờ.
1457. Bhavanti heke purisā gopipāsakajātikā, ghasanti maññe mittāni vācāya na ca kammunā.
1457. Thật vậy, có nhiều người có bản tính thèm khát của loài bò. Tôi nghĩ rằng họ làm vui lòng các bạn bè bằng lời nói mà không bằng hành động.
2. Lắm kẻ bản tâm giống lũ bò,
Tràn đầy khao khát với tham ô,
Nói lời thành thật nâng niu bạn,
Song chẳng hề hành động thế mà.
1458. Sukkhañjalī paggahītā vācāya paḷiguṇṭhitā, manussapheggu nāsīde yasmiṃ natthi kataññutā.
1458. Những người chìa ra bàn tay khô khan, che đậy bằng lời nói, là những người vô tích sự, không nên thân cận hạng người không có sự biết ơn.
3. Bọn chúng chìa tay lạnh trống trơn,
Nói lời che dấu cả tâm hồn,
Bọn người phù phiếm, ta nên tránh,
Những kẻ không hề biết nhớ ơn.
1459. Na hi aññañña cittānaṃ itthīnaṃ purisāna vā, nānāva katvā saṃsaggaṃ tādisampi nāsmase.
1459. Không nên thiết lập sự giao thiệp chặt chẽ với những người nữ, hoặc với những người nam có tâm thay đổi, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.
4. Nam nữ nào tâm chóng đổi thay,Ðừng tin tưởng các bọn người này,
Cũng đừng tin kẻ theo chiều hướng
Làm hiệp ước rồi lại phá ngay.
1460. Anariyakammaṃ okkantaṃ atthetaṃ sabbaghātinaṃ, nisitaṃva paṭicchannaṃ tādisampi nāsmase.
1460. Người phạm đến hành động không thánh thiện, (có lời nói) không quả quyết, là người giết hại tất cả (khi đạt được cơ hội), tựa như giươm bén được che đậy, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.
5. Người bước theo đường ác vẫn đi
Ðến làm mọi việc cực gian nguy,
Liều thân, vô định, đừng tin nó,
Kiếm sắc trong bao có khác gì?
1461. Mittarūpenidhekacce sākhallena acetasā, vividhehi upāyehi tādisampi nāsmase.
1461. Ở đây, một số người với vẻ ngoài bạn bè, với lời nói trau chuốt nhưng không phải tự tâm, theo nhiều phương thức khác nhau, thậm chí không nên tin cậy người như thế ấy.
6. Nhiều kẻ nói năng thật dịu lành,
Những lời không phải tự tâm thành,
Lòng tin chớ đặt vào trong chúng,
Cố lấy lòng nên giả thật tình.
1462. Āmisaṃ vā dhanaṃ vāpi yattha passati tādiso, dūbhiṃ karoti dummedho tañca jhatvāna gacchati.
1462. Kẻ như thế ấy nhìn thấy thức ăn hay tài sản ở nơi nào, kẻ ngu muội ấy lập kế chống đối, đốt cháy vật ấy, rồi bỏ đi.”
7. Khi kẻ ác tâm ấy ngắm xem
Thức ăn hoặc lợi nhuận kề bên,
Nó hành động ác và đi mất,
Nhưng nó làm nguy bạn trước tiên.
1463. Mittarūpena bahavo channā sevanti sattavo, jahe kāpurise hete kukkuṭo viya senakaṃ.
1463. “Với vẻ ngoài bạn bè, nhiều kẻ thù giấu diếm (bản chất xấu xa), rồi thân cận; nên rời khỏi những con người tồi tệ này, tựa như con gà trống rời khỏi chim diều hâu.
8. Lắm kẻ thù ra vẻ thiết thân,
Ra tay giúp đỡ sẵn sàng luôn,
Như Gà rời bỏ Diều hâu ấy,
Tốt nhất nên lìa những ác nhân.
1464. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ na khippamanubujjhati, amittavasamanveti pacchā ca-m-anutappati.
1464. Và người nào không mau chóng nhận biết sự việc đã sanh khởi, rồi đi theo sự khống chế của kẻ thù, về sau sẽ hối tiếc.
9. Người nào không nhạy bén nhìn xa
Ý nghĩa việc làm diễn biến ra,
Phải chịu bao cừu nhân chế ngự,
Ăn năn hối hận buổi sau mà.
1465. Yo ca uppatitaṃ atthaṃ khippameva nibodhati, muccate sattusambādhā kukkuṭo viya senakā.
1465. Và người nào mau chóng nhận chân sự việc đã sanh khởi, người ấy thoát khỏi sự ngược đãi của kẻ thù, tựa như con gà trống thoát khỏi chim diều hâu.
10. Nhanh trí, người nào nhận thấy ngay
Việc làm mang ý nghĩa nào đây,
Như Gà tránh bẫy Diều hâu ấy,
Vậy tránh cừu nhân, phải chạy bay.
10. Kukkuṭajātakaṃ – Bổn Sanh Con Gà Trống
1466. Taṃ tādisaṃ kuṭamivoḍḍitaṃ vane adhammikaṃ niccavidhaṃsakārinaṃ, ārā vivajjeyya naro vicakkhaṇo senaṃ yathā kukkuṭo vaṃsakānane ”ti.
1466. Người khôn ngoan nên tránh né thật xa kẻ như thế ấy, kẻ không đạo đức, thường xuyên gây ra sự phá hoại, tựa như tránh né cái bẫy đã được trương ra ở trong rừng, giống như con gà trống tránh né chim diều hâu ở trong khu rừng tre rậm.”
11. Bẫy đó thông thường lại dối gian,
Giết người, dấu kín giữa rừng hoang,
Như Gà xa lánh Diều hâu ấy,
Người có nhãn quan phải kiếm đàng.
1467. Alaṅkato maṭṭakuṇḍalī mālāhāri haricandanussado, bāhā paggayha kandasi vanamajjhe kiṃ dukkhito tuvaṃ.
1467. “Ngươi đã được trang điểm, có bông tai đã được đánh bóng, có mang tràng hoa, có thoa trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”
1. Sao giữa rừng này có cậu trai,
Tràng hoa, vòng ngọc mỗi bên tai,
Chiên-đàn sực nức, giơ tay nọ,
Sầu khổ gì rơi lệ vắn dài?
1468. Sovaṇṇamayo pabhassaro uppanno rathapañjaro mama, tassa cakkayugaṃ na vindāmi tena dukkhena jahāmi jīvitaṃ.
1468. “Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi từ bỏ mạng sống.”
2. Vàng ròng đúc, chiếu rực hào quang,
Xe ấy con thường vẫn ngã lưng,
Ðôi bánh này con tìm chẳng thấy,
Chắc con buồn khổ đến lìa trần!
1469. Sovaṇṇamayaṃ maṇimayaṃ lohamayaṃ atha rūpiyāmayaṃ, pāvada rathaṃ kārayāmi te cakkayugaṃ paṭipādayāmi taṃ.
1469. “Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng đồng, hay làm bằng bạc? Ngươi hãy nói ra, ta sẽ cho người làm chiếc xe cho ngươi. Ta sẽ giúp cho ngươi đạt được cặp bánh xe.”
3. Bằng vàng, dát ngọc, loại gì nào,
Bằng bạc, hay đồng, trí nghĩ sao,
Cứ nói ra lời, xe được đóng,
Ta tìm đôi bánh sẽ thêm vào!
1470. So māṇavo tassa pāvadi candasuriyā ubhayettha bhātaro, sovaṇṇamayo ratho mama tena cakkayugena sobhati.
1470. Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mặt trăng và mặt trời là anh em; cỗ xe của tôi làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”
4. Nghe nói xong, chàng trẻ đáp lời,
Trong khi chàng ngâm tiếp theo phần còn lại:
Ðằng kia, huynh đệ đó, trăng trời,
Chính nhờ đôi bánh đằng xa ấy,
Xe của con vàng chiếu sáng ngời!
1471. Bālo kho tvamsi māṇava yo tvaṃ patthayase apatthiyaṃ, maññāmi tuvaṃ marissasi na hi tvaṃ lacchasi candasūriye.
1471. “Này người thanh niên, ngươi quả thật khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi sẽ không đạt được mặt trăng và mặt trời.”
5. Chàng thật ngu vì việc đã làm,
Cầu xin chuyện chẳng có ai ham,
Bởi vì ta chắc chàng nên chết
Nhật, nguyệt, đòi sao được hỡi chàng?
1472. Gamanāgamanampi dissati vaṇṇadhātu ubhayettha vīthiyo, peto pana neva dissati ko nu kho kandataṃ bālyataro.
1472. “Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất, lộ trình của cả hai được biết đến. Trái lại, người đã qua đời không được nhìn thấy. Vậy thì trong hai người đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”
6. Trước mắt, trời, trăng, lặn, mọc dần,
Sắc màu, đường hướng vẫn không ngừng;
Còn ai thấy được hồn người chết,
Vậy kẻ nào ngu lúc khóc than?
1473. Saccaṃ kho vadesi māṇava ahameva kandataṃ bālyataro, candaṃ viya dārako rudaṃ petaṃ kālakatābhipatthaye.
1473. “Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai người đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mỏi người chết, đã qua đời, ví như đứa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.”
7. Giữa ta, hai kẻ khóc than thân,
Chàng thật khôn, ta thật độn đần,
Quả đúng, đòi hồn người đã chết,
Khác nào con trẻ khóc đòi trăng?
1474. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃ va pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
1474. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
8. Lòng ta thiêu đốt nóng bừng, Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Chàng đà đem nước lạnh vào,
Và chàng dập tắt khát khao, tủi buồn.
1475. Abbahī vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.
1475. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên đã cắm vào trái tim của tôi.
9. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Chàng đà an ủi khuây khỏa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
11. Maṭṭakuṇḍalijātakaṃ – Bổn Sanh Thiên Tử Maṭṭakuṇḍali.
1476. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇavā ”ti.
1476. Tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”
10. Tên vừa nhổ, khỏi đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày khinh an,
Nghe lời chân thật, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than muộn phiền.
1477. Apacantāpi dicchanti santo laddhāna bhojanaṃ, kimeva tvaṃ pacamāno yaṃ na dajjā na taṃ samaṃ.
1477. “Những người tốt vẫn mong muốn bố thí, mặc dầu chưa nấu chín vật thực đã có được, vậy thì tại sao ông không muốn cho trong khi đang nấu chín (thức ăn), việc ấy là không đúng đắn đối với ông?
1. Khi món ăn không có giữa nồi,
Thiện nhân tìm, chẳng chối từ hoài,
Còn ngài đang nấu, thì không tốt
Nếu chẳng muốn chia xẻ với ai.
1478. Maccherā ca pamādā ca evaṃ dānaṃ na dīyati, puññaṃ ākaṅkhamānena deyyaṃ hoti vijānatā.
1478. Như vậy, vật thí không được cho ra do sự bỏn xẻn và do sự xao lãng. Người có sự nhận thức, trong khi mong mỏi phước báu, nên thực hành bố thí.
2. Phóng dật, xan tham, kẻ chối từ
Chẳng hề đem bố thí bao giờ,
Còn người nào thích làm công hạnh,
Là một trí nhân, phải biết cho.
1479. Yasseva bhīto na dadāti maccharī tadeva adadato bhayaṃ, jighacchā ca pipāsā ca yassa bhāyati maccharī, tameva bālaṃ phusati asmiṃ loke paramhi ca.
1479. “Bị sợ hãi về sự đói và sự khát mà kẻ bỏn xẻn không bố thí; chính nỗi sợ hãi ấy có ở kẻ không bố thí. Kẻ bỏn xẻn sợ hãi về sự đói và sự khát, chính việc ấy đáp trả lại kẻ ngu ở đời này và ở đời sau.
3. Sợ khi khát nước hoặc thèm cơm
Khiến bọn xan tham phải hoảng hồn,
Trong cõi đời này, đời kế nữa,
Bọn ngu kia phải trả hoàn toàn.
1480. Tasmā vineyya maccheraṃ dajjā dānaṃ malābhibhū, puññāni paralokasmiṃ patiṭṭhā honti pāṇinaṃ.
1480. Vì thế, người chiến thắng tật xấu nên dẹp bỏ tánh bỏn xẻn, nên ban phát vật thí. Các phước báu là nơi nương nhờ của chúng sanh trong đời vị lai.
4. Vậy nên bố thí, tránh xan tham,
Rửa sạch tâm nhơ ác dục tràn,
Trong cõi đời sau, nhiều thiện nghiệp
Sẽ là nơi trú tuyệt an toàn.
1481. Duddadaṃ dadamānānaṃ dukkaraṃ kamma kubbataṃ, asanto nānukubbanti sataṃ dhammo durannayo.
1481. “Trong khi họ cho vật khó cho, trong khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được; pháp của những người tốt là khó đạt đến.
5. Thực khó làm như các thiện nhân,
Phát ban như các vị đem ban,
Khó mà kẻ ác làm theo được
Cuộc sống hiền nhân vẫn trú an.
1482. Tasmā satañca asatañca nānā hoti ito gati, asanto nirayaṃ yanti santo saggaparāyanā.
1482. Vì thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau, những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cõi trời.”
6. Vậy thì khi phải giã từ trần,
Kẻ ác, người hiền bỏ thế gian,
Kẻ ác tái sinh vào địa ngục,
Người hiền sinh ở cõi thiên đàng.
1483. Appasmeke pavecchanti bahuneke na dicchare, appasmā dakkhiṇā dinnā sahassena samaṃ mitā.
1483. “Một số người dầu có ít vẫn ban phát, một số khác có nhiều nhưng không bố thí. Sự cúng dường được dâng hiến (với đức tin) dầu ít ỏi, được xác định tương đương với một ngàn lần (sự bố thí bình thường).
7. Có người ít của vẫn đem ban,
Có kẻ không cho, dẫu của tràn,
Người ít của cho không thể kém
Kẻ kia ban phát cả trăm ngàn.
1484. Dhammaṃ care yopi samuñjakaṃ care dārañca posaṃ dadaṃ appakasmiṃ, sataṃ sahassānaṃ sahassayāginaṃ kalampi nāgghanti tathāvidhassa te.
1484. “Thậm chí người nào sống nhờ vào việc lượm lặt, cũng nên thực hành thiện pháp, ngay trong lúc chu cấp vợ và con, vẫn hành pháp bố thí mặc dầu ít ỏi. Các sự cúng tế một trăm ngàn đồng tiền của một ngàn kẻ chủ tế không giá trị bằng một phần mười sáu pháp bố thí của người như thế ấy.”
8. Dù sống chắt chiu, phải chánh chân,
Con nhiều, của ít vẫn đem phân,
Trăm ngàn đồng bạc người giàu cúng
Chẳng sánh quà con của tiện dân.
1485. Kenesa yañño vipulo mahagghato samena dinnassa na agghameti, kathaṃ sahassānaṃ sahassayāginaṃ kalampi nāgghanti tathāvidhassa te.
1485. “Vì sao sự cúng tế vĩ đại, có giá trị lớn, không sánh bằng giá trị của việc bố thí đúng pháp? Tại sao các sự cúng tế một trăm ngàn đồng tiền của một ngàn kẻ chủ tế không giá trị bằng một phần mười sáu pháp bố thí của người như thế ấy?”
9. Sao dồi dạt lễ vật cao sang
Giá trị không bằng vật chánh chân,
Sao cả ngàn đồng từ phú hộ
Chẳng bằng quà mọn kẻ cùng bần?
12. Biḷārakosiyajātakaṃ – Bổn Sanh Triệu Phú Biḷārakosiya
1486. Dadanti heke visame niviṭṭhā jhatvā vadhitvā atha socayitvā, sā dakkhiṇā assumukhā sadaṇḍā samena dinnassa na agghameti, evaṃ sahassānaṃ sahassayāginaṃ kalampi nāgghanti tathāvidhassa te ”ti.
1486. “Bởi vì, một số người đã tham dự vào việc bất công, đã thiêu đốt, đã chém giết, đã gây nên sự sầu muộn, rồi hành pháp bố thí; việc cúng dường ấy có khuôn mặt đẫm nước mắt, có gậy gộc, không sánh bằng giá trị của việc bố thí đúng pháp; tương tự như thế, các sự cúng tế một trăm ngàn đồng tiền của một ngàn kẻ chủ tế không giá trị bằng một phần mười sáu pháp bố thí của người như thế ấy.”
10. Nhiều người sống độc ác hung tàn,
Ðàn áp, giết rồi lại phát ban:
Thí vật chua cay, tàn nhẫn ấy
Thua xa quà tặng với chân tâm,
Nên ngàn đồng bạc người giàu cúng
Chẳng sánh quà con của tiện dân.
1487. Vaṇṇavā abhirūposi ghano sañjātarohito, cakkavāka surūposi vippasannamukhindriyo.
1487. “Bạn có tướng mạo, có vóc dáng đẹp, rắn rỏi, lấp lánh màu đỏ. Này chim hồng hạc, bạn có vóc dáng xinh, có khuôn mặt và giác quan thanh tịnh.
1. Màu lông tươi đẹp, dáng thanh tao,
Thân thể tròn xinh, ửng sắc đào,
Này Ngỗng, đúng là bạn tuyệt mỹ,
Năm căn và mặt sáng ngời sao!
1488. Pāṭhīnaṃ pāvusaṃ macchaṃ valajaṃ muñjarohitaṃ, gaṅgāya tīre nisinno evaṃ bhuñjasi bhojanaṃ.
1488. Ngồi ở bờ sông Gaṅgā, bạn hưởng thụ thức ăn là loài cá: cá trích, cá miệng rộng, cá valaja, cá muñja, và cá hồi.”
2. Trong khi đậu ở bến sông Hằng,
Cá tráp, cá vền, Ngỗng vẫn ăn,
Cá chép, cùng nhiều loài cá khác,
Trên dòng sông nước lội tung tăng.
1489. Na cāhametaṃ bhuñjāmi jaṅgalā nodakāni vā, aññatra sevālapaṇakā etaṃ me samma bhojanaṃ.
1489. “Ta không thọ dụng thức ăn ấy, các loài sinh vật ở rừng hoặc ở trong nước, ngoại trừ rong rêu và cỏ dại; này bạn, vật ấy là thức ăn của ta.”
3. Ta chẳng ăn bầy cá giữa dòng,
Cũng không nằm nghỉ ở trong rừng,
Mọi loài rong cỏ, ta nuôi sống,
Này bạn, đó là món Ngỗng ăn.
1490. Na cāhametaṃ saddahāmi cakkavākassa bhojanaṃ, ahaṃ hi samma bhuñjāmi gāme loṇiyateliyaṃ.
1490. “Tôi không tin vật ấy là thức ăn của loài chim hồng hạc. Này bạn, bởi vì tôi ăn thức ăn có muối và dầu ăn ở trong làng.
4. Ta chẳng tin theo Ngỗng giải bày,
Xác minh thực phẩm nó ăn đầy,
Của ngon trong xóm ngâm dầu muối,
Là món ta ăn sống mỗi ngày.
1491. Manussesu kataṃ bhattaṃ sucimaṃsūpasecanaṃ, na ca me tādiso vaṇṇo cakkavāka yathā tavaṃ.
1491. Này chim hồng hạc, bữa ăn được làm ở nơi loài người có trộn lẫn thịt tinh khiết, và tướng mạo của tôi là như thế ấy, không giống như của bạn.”
5. Món cơm tinh sạch, đẹp làm sao
Có kẻ làm xong, lại đổ vào
Món thịt ấy, nhưng này bạn Ngỗng,
Sắc ta không giống bạn đâu nào.
1492. Sampassaṃ attani veraṃ hiṃsayaṃ mānusiṃ pajaṃ, utrasto ghasasī bhīto tena vaṇṇo tavediso.
1492. “Trong khi nhận thấy tâm oán thù ở bản thân, trong khi hãm hại dòng dõi loài người, bạn thọ dụng thức ăn, luôn dáo dác, sợ hãi; vì thế, tướng mạo của bạn là như vậy.
6. Ngắm xem tội ác ở lòng người,
Làm hại, phá tan cả cuộc đời,
Lo sợ, kinh hoàng, ngươi ẩm thực,
Nên ngươi có được sắc này thôi.
1493. Sabbalokaviraddhosi dhaṅka pāpena kammunā, laddho piṇḍo na pīṇeti tena vaṇṇo tavediso.
1493. Này quạ, bạn thù nghịch với tất cả thế gian bằng hành động độc ác. Miếng ăn đạt được không làm cho bạn cường tráng; vì thế, tướng mạo của bạn là như vậy.
7. Quạ ơi, lầm lạc khắp trên trần,
Tội ác trong đời trước hóa thân,
Bạn chẳng thích đồ ăn uống nữa,
Chính màu này Quạ phải mang luôn.
1494. Ahampi samma bhuñjāmi ahiṃsā sabbapāṇinaṃ, appossukko nirāsaṅkī asoko akuto bhayo.
1494. Này bạn, tôi cũng thọ dụng thức ăn, không có sự hãm hại tất cả các loài có mạng sống. Tôi ít ham muốn, không ngờ vực, không sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.
8. Này bạn ta chẳng hại ai,
Cũng không lo lắng, dạ an hoài,
Cũng không có việc gì sầu muộn,
Sợ hãi gì do kẻ địch ngoài.
1495. So karassu anubhāvaṃ vītivattassu sīliyaṃ, ahiṃsāya varaṃ loke piyo hohisi mammiva.
1495. Chính bạn hãy chứng tỏ năng lực, hãy vượt qua bản chất xấu xa. Trong khi sống ở thế gian không hãm hại, bạn sẽ trở nên đáng yêu như là tôi vậy.
9. Vậy bạn này, nên sống dũng cường,
Giã từ đường lối sống vô lương,
Trên đời tiến bước không làm hại,
Tất cả cùng yêu mến tán dương.
13. Cakkavākajātakaṃ – Bổn Sanh Chim Hồng Hạc
1496. Yo na hanti na ghāteti na jināti na jāpaye, mettaṃso sabbabhūtesu veraṃ tassa na kenacī ”ti.
1496. Người nào không giết hại, không bảo giết hại, không thống trị, không bảo thống trị, có tâm từ ái đối với tất cả chúng sanh, người ấy không có oán thù với bất cứ ai.”
10. Người nào thân ái với muôn loài,
Không hại và không bảo hại ai,
Không quấy nhiễu, không ai quấy nhiễu,
Không thấy gì sân hận vì người.
1497. Saccaṃ kira tvampi bhūripañño yā tādisī siri dhitī mutī ca, na tāyate bhāvavasūpanītaṃ yo yāvakaṃ bhuñjasi appasūpaṃ.
1497. “(Điều vị Senaka đã nói) quả đúng là sự thật, ngài dầu có trí tuệ uyên bác, thêm vào sự vinh quang, nghị lực, và thông minh như thế ấy vẫn không bảo vệ được vị thế và quyền lực đã đạt đến của ngài, khiến ngài phải ăn món lúa mạch với ít nước xúp.”
40. Có thật ngài là bậc Trí nhân,
Như người đồn có trí uyên thâm,
Vậy tài trí, đại vinh quang ấy,
Chẳng phục vụ ngài đúng nghĩa chăng,
Và đã trở thành không ý nghĩa,
Trong khi ngài nuốt chút cơm hầm?
1498. Sukhaṃ dukkhena paripācayanto kālākālaṃ vicinaṃ chandachanno, atthassa dvārāni avāpuranto tenāhaṃ tussāmi yavodanena.
1498. “Trong khi làm tăng trưởng hạnh phúc với sự khó nhọc, trong khi xem xét thời điểm hoặc chưa phải thời điểm, ta đã che giấu lòng mong muốn trong khi mở ra các cánh cửa đưa đến điều lợi ích; vì thế, ta hài lòng với cơm lúa mạch.
41. Vinh quang ta tạo bởi gian truân,
Đúng lúc, trái thời, ta biệt phân,
Để ẩn náu mình theo ý muốn,
Mở toang các cửa lợi vô ngần,
Cho nên ta biết điều tri túc,
Với chút cơm hầm, vẫn muốn ăn.
1499. Kālañca ñatvā abhijīhanāya mantehi atthaṃ paripācayitvā, vijambhissaṃ sīhavijambhitāni tāyiddhiyā dakkhasi maṃ punāpi.
1499. Và sau khi nhận biết thời điểm cho việc ra sức, sau khi làm cho chín muồi sự lợi ích thông qua các kế hoạch, ta sẽ phô trương bản thân tựa như con sư tử đã vươn dậy; với sự thành tựu ấy, ngươi cũng sẽ gặp lại ta.”
42. Khi ta nhận thấy đúng thời cơ,
Nỗ lực tạo thành mối lợi to,
Theo kế hoạch, ta liền chịu đựng,
Can cường chẳng khác một thanh sư,
Và nhờ năng lực oai hùng ấy,
Ông sẽ thấy ta trở lại mà.
1500. Sukhīhi eke na karonti pāpaṃ avaṇṇasaṃsaggabhayā puneke, pahū samāno vipulatthacintī kiṃ kāraṇā me na karosi dukkhaṃ.
1500. “Một số người không làm điều ác bởi vì họ hạnh phúc, thêm nữa một số người do sợ hãi việc dính líu đến điều tai tiếng; còn khanh, trong khi đang có nhiều ý tưởng về những lợi ích lớn lao, vì lý do gì mà khanh không gây ra sự khổ đau cho trẫm?”
43. Lắm kẻ không gây tạo lỗi lầm,
Bởi vì họ đã được giàu sang,
Nhưng nhiều người chẳng gây lầm lỗi,
Vì sợ bùn nhơ cấu uế tâm,
Con đủ tài năng làm sự nghiệp,
Sao con không hãm hại vương quân?
1501. Na paṇḍitā attasukhassa hetu pāpāni kammāni samācaranti, dukkhena phuṭṭhā khalitattāpi santā chandā ca dosā na jahanti dhammaṃ.
1501. “Các bậc sáng suốt không vì nguyên nhân hạnh phúc của bản thân mà tạo ra các ngiệp ác xấu. Những người tốt, dầu bị tác động bởi khổ đau, dầu bản thân bị vấp ngã, cũng không vì tham muốn và sân hận mà từ bỏ thiện pháp.”
44. Bậc Trí giả không tạo lỗi lầm,
Chỉ vì lạc thú hưởng giàu sang,
Thiện nhân dù gặp cơn tai họa,
Và bị lâm vào cảnh khốn nàn,
Chẳng vì thân hữu hay thù hận,
Mà phải khước từ đạo chánh chân.
1502. Yena kenaci vaṇṇena mudunā dāruṇena vā, uddhare dīnamattānaṃ pacchā dhammaṃ samācare.
1502. “Bằng bất cứ cách thức nào, mềm mỏng hay thô bạo, nên đưa bản thân ra khỏi tình trạng khốn khó, rồi sau đó mới thực hành thiện pháp.”
45. Người nào vì bất cứ nguyên nhân,
Dù nhỏ, dù to, với bản thân,
Đưa chính mình lên từ chỗ thấp,
Về sau tiến bước đạo Như chân.
1503. Yassa rukkhassa chāyāya nisīdeyya sayeyya vā, na tassa sākhaṃ bhañjeyya mittadubbho hi pāpako.
1503. “Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của cây nào thì không nên bẻ gãy cành lá của cây ấy, bởi vì kẻ hãm hại bạn bè là kẻ ác xấu.
46. Dưới một gốc cây bóng mát lành,
Nếu ta ngồi xuống nghỉ thân mình,
Chặt cành lá ấy là làm phản,
Bọn giả dối, ta phải ghét khinh.
1504. Yassāhi dhammaṃ manujo vijaññā ye cassa kaṅkhaṃ vinayanti santo, taṃ hissa dīpañca parāyaṇañca na tena mittaṃ jarayetha pañño.
1504. Nhờ vào vị nào mà một người có thể nhận thức được lẽ phải, và các bậc thiện nhân dẹp bỏ mối nghi ngờ đối với người này, chính vị ấy là hòn đảo và là nơi nương tựa của người này; người có sự hiểu biết không nên hủy hoại tình bạn với vị ấy.”
47. Nếu một người khai đạo chánh chân,
Đánh tan nghi hoặc của tha nhân,
Người này thành một nơi nương tựa,
Và bảo hộ cho chính bản thân,
Bậc Trí không bao giờ hủy diệt,
Mối dây này kết hợp thân bằng.
1505. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.
1505. “Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.
48. Ta ghét thế nhân đắm dục tình,
Giả tu là dối gạt rành rành,
Hôn quân xử án không nghe thấy,
Sân hận người hiền chẳng biện minh.
14. Bhūripaññajātakaṃ – Bổn Sanh Trí Tuệ Uyên Bác
1506. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisammakārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.
1506. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”
49. Vị vua thận trọng suy tư kỹ,
Xử án đầy suy xét tận tình,
Vua chúa suy tư phân xử đúng,
Đời đời danh vọng mãi quang vinh.
1507. Kiṃ su naro jappamadhiccakāle kaṃ vā vijjaṃ katamaṃ vā sutānaṃ, so macco asmiñca paramhi loke kathaṃ karo sotthānena gutto.
1507. “Con người học thuộc lòng và trì tụng cái gì vào thời điểm khấn nguyện? Kinh văn nào, hoặc phần nào trong các giáo điều? Người ấy được bảo vệ một cách an lành ở kiếp này và kiếp sau là người thực hành như thế nào?”
1. Hiển bày chân lý, giải nghi nan,
Xin dạy kinh gì của Thánh nhân
Ðược học hành theo giờ thuận lợi,
Ðời này, đời kế tạo hồng ân?
1508. Yassa devā pitaro ca sabbe siriṃsapā sabbabhūtāni cāpi, mettāya niccaṃ apacitāni honti bhūtesu ve sotthānaṃ tadāhu.
1508. “Người nào thường xuyên tôn vinh chư Thiên và tất cả cha ông, các loài rắn và tất cả các sanh linh với tâm từ ái, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các sanh linh.
2. Mỗi Phạm thiên, thần thánh hiển linh,
Rắn rồng ta thấy giữa quần sinh,
Trong lòng mãi mãi đầy từ mẫn,
Vị ấy ban ơn mọi hữu tình.
1509. Yo sabbalokassa nivātavutti itthīpumānaṃ sahadārakānaṃ, khantā duruttānaṃ apaṭikkūlavādī adhivāsanaṃ sotthānaṃ tadāhu.
1509. Người nào có lối cư xử khiêm tốn đối với tất cả thế gian, đối với những người nữ và nam, đối với các đứa trẻ, là người nhẫn nhịn, không nói lời mắng nhiếc đối với những lời phát biểu khó nghe, người ấy đã chúc tụng sự an lành tức là sự kham nhẫn.
3. Kẻ nào khiêm tốn với muôn người,
Yêu mến nữ nam, mọi gái trai,
Ðứng trước lời bình, không đáp lại,
Sẽ mang hạnh phúc đến cho đời.
1510. Yo nāvajānāti sahāyamatte sippena kulyāhi dhanena jaccā, rucipañño atthakāle mutimā sahāyesu ve sotthānaṃ tadāhu.
1510. Người nào không khi dễ các cộng sự và các bạn bè về nghề nghiệp, về gia tộc, về tài sản, về dòng dõi, là người có trí tuệ trong sáng, có sự nhận biết vào thời điểm có lợi ích, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các bạn bè.
4. Gặp hiểm nguy, người có trí nhanh
Chẳng khinh đồng nghiệp, bạn đồng hành,
Chẳng khoe dòng trí, giàu, giai cấp,
Hạnh phúc cho đời ắt khởi sinh.
1511. Mittāni ve yassa bhavanti santo saṃvissatthā avisaṃvādakassa, na mittadūbhi saṃvibhāgi dhanena mittesu ve sotthānaṃ tadāhu.
1511. Thật vậy, người nào có các thân hữu là những người tốt, đạt được sự tin cậy, người nào không có bản tánh lường gạt, không phải là kẻ hãm hại thân hữu, có sự chia sớt về tài sản, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các thân hữu.
5. Người nào kết bạn thiện, hiền nhân,
Ðược trọng vì mồm chẳng ác thâm,
Không hại bạn, chia đều của cải,
Chính niềm hạnh phúc giữa thân bằng.
1512. Yassa bhariyā tulyavayā samaggā anubbatā dhammakāmā pajātā, koliniyā sīlavatī patibbatā dāresu ve sotthānaṃ tadāhu.
1512. Người nào có cô vợ là người tương đương về tuổi tác, sống hòa thuận, tận tụy, mong muốn làm thiện pháp, có khả năng sanh sản, xuất thân gia giáo, có giới hạnh, chung thủy, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các cô vợ.
6. Vợ hiền, đồng tuổi, có tình thân,
Tận tụy, nhân từ, trẻ lại đông,
Ðức hạnh, trung thành, dòng quý tộc,
Ấy niềm hạnh phúc giữa hồng quần.
1513. Yassa rājā bhūtapatī yasassī jānāti soceyyaṃ parakkamañca, advejjhatāsu hadayaṃ mamanti rājusu ve sotthānaṃ tadāhu.
1513. Người nào có vị vua là chúa tể của thần dân, có danh tiếng, nhận biết sự thanh liêm và sự nỗ lực, có trạng thái không do dự (xác quyết rằng): ‘Người này là bạn của trẫm,’ người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các vị vua.
7. Vua nào đại đế giữa thần dân,
Biết sống thanh cao, đủ khả năng,
Bảo: “Ðấy bạn ta”, không dối trá,
Chính niềm hạnh phúc giữa vương quân.
1514. Annañca pānañca dadāti saddho mālañca gandhañca vilepanañca, pasannacitto anumodamāno saggesu ve sotthānaṃ tadāhu.
1514. Người có niềm tin bố thí cơm ăn, nước uống, tràng hoa, hương thơm, và dầu thoa, trong lúc tùy hỷ và có tâm tịnh tín, người ấy hẳn nhiên đã chúc tụng sự an lành cho các cõi trời.
8. Thành tín, cùng cơm nước cúng dường,
Vòng hoa tươi tốt, các mùi hương,
Với tâm thanh tịnh, gieo an lạc,
Ấy mang hạnh phúc mọi thiên đường.
1515. Yamariyadhammena punanti vaddhā ārādhitā samacariyāya santo, bahussutā isayo sīlavantaṃ arahantamajjhe sotthānaṃ tadāhu.
1515. Người nào mà các bậc trưởng thượng, các bậc an tịnh đã được hoàn thành nhờ vào việc thực hành đúng đắn, các bậc ẩn sĩ đa văn, có giới hạnh, làm cho trong sạch nhờ vào Thánh pháp, người ấy đã chúc tụng sự an lành ở giữa các bậc A-la-hán.
9. Các trí nhân thuần thiện, chánh chân,
Tâm tư rửa sạch, gắng tinh cần,
Theo đời thanh tịnh, người hiền trí,
Phúc lạc thay người giữa Thánh nhân!
15. Mahāmaṅgalajātakaṃ – Bổn Sanh Điềm Lành Lớn
1516. Etāni kho sotthānāni loke viññuppasatthāni sukhudrayāni , tānīdha sevetha naro sapañño na hi maṅgale kiñcanam atthi saccan ”ti.
1516. Thật vậy, các sự an lành này ở thế gian được khen ngợi bởi những người hiểu biết, là các nguồn tạo ra sự an lạc. Ở đây, người có trí tuệ nên thực hành các điều ấy, bởi vì không có bất cứ cái gì gọi là Chân Lý ở điềm lành cả.”
10. Công đức như vầy giữa thế gian,
Ðược tôn sùng bởi mọi hiền nhân,
Người khôn hãy bước đi theo chúng,
Ðiềm triệu chẳng mang tính thật chân.
1517. Uṭṭhehi kaṇha kiṃ sesi ko attho supine tena, yopi tuyha sako bhātā hadayaṃ cakkhuñca dakkhiṇaṃ, tassa vātā balīyanti ghato jappati kesava.
1517. “Tâu Kaṇha, xin bệ hạ hãy đứng lên. Việc gì bệ hạ lại nằm? Có lợi ích gì với ngài ở giấc chiêm bao? Các cơn gió khuấy động người em trai ruột, trái tim và con mắt phải của bệ hạ. Tâu Kesava, Ghata nói lảm nhảm.”
1. Hắc đế Kan-ha, hãy đứng lên,
Sao ngài nhắm mắt ngủ, nằm yên,
Kìa bào đệ, gió to đang cuốn
Tâm trí chàng bay mất, hãy nhìn:
Mất trí, Gha-ta mồm lảm nhảm,
Hỡi ngài Ðại đế tóc đen huyền!
1518. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā rohiṇeyyassa kesavo, taramānarūpo vuṭṭhāsi bhātusokena aṭṭito.
1518. Sau khi nghe lời nói ấy của cận thần Rohiṇeyya ấy, đức vua Kesava, bị khổ sở bởi nỗi sầu muộn về người em trai, đã vùng dậy với vẻ vội vã.
2. Chốc lát vua dài tóc Ke-sa,
Nghe Ro-hi lớn tiếng gào la,
Ðứng lên, đại đế đầy phiền muộn
Vì nỗi khổ buồn của Gha-ta
1519. Kinnu ummattarūpova kevalaṃ dvārakaṃ imaṃ, saso sasoti lapasi ko nu te sasamāhari.
1519. “Có phải em, với dáng vẻ giống như người điên, (đi lang thang) khắp cổng thành này, lải nhải rằng: ‘Con thỏ, con thỏ.’ Thế người nào đã lấy đi con thỏ của em?
3. Sao dáng điên rồ, đệ bước qua
Khắp miền non nước Dvà-ra-ka,
Và kêu: “Thỏ, thỏ! này cho biết,
Ai lấy thỏ con của đệ à?
1520. Sovaṇṇamayaṃ maṇimayaṃ lohamayaṃ atha rūpiyāmayaṃ, saṅkhasilāpavāḷamayaṃ kārayissāmi te sasaṃ.
1520. Con thỏ của em làm bằng vàng, bằng ngọc ma-ni, bằng đồng, bằng bạc, bằng vỏ sò, đá cuội, hay san hô, trẫm sẽ bảo làm con thỏ cho em.
4. Thỏ làm bằng ngọc hoặc vàng ròng,
Như đệ ước ao, bạc hoặc đồng,
Vỏ óc, san hô, hay đá cuội,
Ta làm ngay thỏ, đệ an lòng.
1521. Santi aññepi sasakā araññe vanagocarā, tepi te ānayissāmi kīdisaṃ sasamicchasi.
1521. Cũng có những con thỏ khác ở trong khu rừng, kiếm ăn ở trong rừng; trẫm sẽ cho đem chúng đến cho em. Em muốn con thỏ loại như thế nào?”
5. Còn có nhiều loài thỏ biết bao,
Vẫn thường quanh quẩn chốn rừng sâu,
Ðược mang về nữa ta đòi bắt,
Hãy nói, em thích chọn thứ nào?
1522. Nacāhametaṃ icchāmi ye sasā paṭhaviṃ sitā, candato sasamicchāmi tamme ohara kesava.
1522. “Nhưng em không muốn con thỏ ấy, những con thỏ nương náu ở trái đất. Em muốn con thỏ từ mặt trăng. Anh Kesava, anh hãy mang nó xuống cho em.”
6. Em chẳng ước ao thỏ thế gian,
Mà mơ con thỏ ở cung trăng,
Này Ke-sa, thỏ kìa, đem xuống,
Em chẳng đòi thêm một đặc ân.
1523. So nūna madhuraṃ ñāti jīvitaṃ vijahissasi, apatthiyaṃ yo patthayasi candato sasamicchasi.
1523. “Này người bà con, đúng là em đây sẽ lìa bỏ cuộc sống ngọt ngào; em mong mỏi vật không thể mong mỏi, em muốn con thỏ từ mặt trăng.”
7. Nói thật này em sẽ chết thôi,
Nếu em cầu khấn chuyện kia hoài,
Em đòi chuyện chẳng ai mong ước,
Con thỏ cung trăng ở cõi trời!
1524. Evañce kaṇha jānāsi yadaññamanusāsasi, kasmā pure mataṃ puttaṃ ajjāpimanusocasi.
1524. “Này anh Kaṇha, nếu anh biết là như vậy thì anh mới nên khuyên bảo người khác như thế; tại sao đến bây giờ anh vẫn sầu muộn về đứa con trai đã chết trước đây?
8. Nếu Kan-ha hiểu chuyện này mau,
Và giải khuyên người khóc khổ đau,
Anh vẫn cớ sao đang phiền muộn
Ðứa con trai đã chết từ lâu?
1525. Yaṃ na labbhā manussena amanussena vā puna, jāto me māmari putto kuto labbhā alabbhiyaṃ.
1525. Việc nào không thể đạt được bởi con người hoặc ngay cả phi nhân (như là): ‘Mong rằng đứa con trai đã được sanh ra của tôi đừng chết,’ do đâu mà điều không thể đạt được sẽ trở nên đạt được?
9. Con ta sinh, ước chẳng lìa trần,
Không một người hay cả thánh thần
Có thể đạt lời nguyền kia, vậy
Sao điều không có, lại cầu mong?
1526. Na mantā mūlabhesajjā osadhehi dhanena vā, sakkā ānayituṃ kaṇhā yampetamanusocasi.
1526. Này anh Kaṇha, không thể đưa người quá vãng mà anh sầu muộn trở về bằng chú thuật, bằng thuốc men từ rễ cây, bằng các thần dược, hoặc bằng tài sản.”
10. Không có bùa thiên, hoặc thuốc thần,
Chẳng loài cỏ thuốc hoặc tiền vàng
Ðủ công năng để làm cho sống
Người chết, Kan-ha vẫn khóc than.
1527. Yassa etādisā assu amaccā purisapaṇḍitā, yathā nijjhāpaye ajja ghato purisapaṇḍito.
1527. “Mong sao trẫm có được những người cộng sự, những người sáng suốt như thế này, giống như con người sáng suốt Ghata hôm nay có thể làm cho bừng tỉnh.
11. Trẫm nghe nhiều bậc trí nhân,
Nhiều người lỗi lạc khuyên toàn điều hay,
Song Gha-ta đã khéo thay,
Mở đôi mắt trẫm từ nay sáng bừng!
1528. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃ va pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
1528. Quả thật, trong khi trẫm đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
12. Ta đang thiêu đốt trong lòng,
Như khi người đổ dầu trong lửa đào,
Em đà mang nước lạnh vào,
Và em dập tắt khát khao tủi buồn.
1529. Abbahī vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.
1529. Khi trẫm bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của trẫm, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của trẫm.
13. Vì con, bao nỗi sầu tuôn,
Mũi tên độc cắm trong hồn của ta,
Em vừa an ủi khuây khoa
Nỗi niềm bi thiết, nhổ ra tên này.
1530. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇava.
1530. Trẫm đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này chàng trai, sau khi lắng nghe em, trẫm không sầu muộn, không khóc lóc.”
14. Tên vừa nhổ, hết đau ngay,
Giữ tâm thanh thản, ta rày bình an,
Nghe lời chân lý, hỡi chàng,
Ta không còn phải khóc than đau buồn.
16. Ghatapaṇḍitajātakaṃ – Bổn Sanh Ghata Sáng Suốt
1531. Evaṃ karonti sappaññā ye honti anukampakā, nivattayanti sokamhā ghato6 jeṭṭhaṃva bhātaran ”ti.
1531. Những bậc có trí tuệ hành xử như thế, họ là những bậc có lòng thương tưởng; các vị giúp cho vượt qua nỗi sầu muộn, tựa như Ghata (đã làm) đối với người anh trai vậy.
15. Hãy làm như đấng từ tâm,
Và như các bậc trí nhân đại hiền
Giải tan các nỗi ưu phiền,
Như Gha-ta đã giải khuyên anh mình.
TASSUDDĀNAṂ
Daḷhakaṇhadhanañcayasaṅkhavaro rājā sattāha sasakha takkaḷinā, dhammaṃ kukkuṭakuṇḍalibhojanadā cakkavāka subhūrisasotthi ghato.
Dasakanipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẦN NÀY
Chuyện thành vững chắc, ẩn sĩ Kaṇha, vị Dhanañcaya, Bà-la-môn Saṅkha, đức vua, bảy ngày Phạm hạnh, với Sākha, củ takkaḷa, thiện pháp, con gà trống, có bông tai, người bố thí bữa ăn, chim hồng hạc, trí tuệ uyên bác, có sự an lành, vị Ghata sáng suốt.
Nhóm Mười Kệ Ngôn được chấm dứt.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda