Tiểu Bộ – Bổn Sanh Ii: Nhóm Ba Mươi Kệ Ngôn – Bài 1-5
MAIN CONTENT
TIỂU BỘ
BỔN SANH II: NHÓM BA MƯƠI KỆ NGÔN – BÀI 1-5
▪ 1. KIṂCHANDAJĀTAKAṂ – BỔN SANH MONG MUỐN GÌ
511. Chuyện dục tham kỳ dị (Tiền thân Kimchanda)
2713. Kiṃ chando kimadhippāyo eko sammasi ghammani, kiṃ patthayāno kiṃ esaṃ kena atthena brāhmaṇa.
2713. “Này vị Bà-la-môn, ngài một mình ngồi ở nơi nóng nực với mong muốn gì, với ý định gì, đang ước nguyện điều gì, đang tìm kiếm cái gì, nhằm mục đích gì?”
1. Vì cớ sao ngài ở bến sông
Suốt trong mùa hạ, nắng oi nồng
Bà-la-môn hỡi, người thầm nguyện
Chủ đích gì ngài vẫn ước mong
2714. Yathā mahāvāridharo kumbho suparināhavā, tathūpamaṃ ambapakkaṃ vaṇṇagandharasuttamaṃ.
2714. “(Ta đã nhìn thấy) trái xoài chín, có màu sắc, mùi thơm, và hương vị tuyệt vời, trông tương tự như cái hũ đựng nước lớn, có kiểu dáng đẹp.
2. Bồng bềnh trôi nổi ở trên dòng
Ta thấy xoài kia, hỡi nữ thần
Vươn cánh tay dài ta lấy quả
Ðem về nhà cất ở gian trong
2715. Taṃ vuyhamānaṃ sotena disvānāmalamajjhime,
pāṇīhi naṃ gahetvāna agyāyatanamāhariṃ.
2715. Hỡi cô nàng có vòng eo thanh khiết, sau khi nhìn thấy trái xoài đang bị cuốn trôi bởi dòng nước, ta đã vớt lấy nó bằng hai bàn tay, rồi đã mang nó đến ngôi nhà cúng tế thần lửa.
3. Ngọt ngào hương vị thật thanh tao,
Ta nghĩ của trời quí giá sao!
Hình dáng đẹp tươi này sánh với
Chiếc bình lớn nhất khác chi nào!
2716. Tato kadalipattesu nikkhipitvā sayaṃ ahaṃ,
satthena naṃ vikappetvā khuppipāsaṃ ahāsi me.
2716. Sau đó, đích thân ta đã đặt nó xuống ở những mảnh lá chuối, rồi dùng dao cắt thành miếng. Nó đã làm tiêu tan sự đói khát của ta.
4. Ta dấu xoài trong lá chuối cây
Cắt ra từng lát với dao này
Ít oi thực phẩm, phần ăn uống
Hợp với đời người đạm bạc đây
2717. Sohaṃ apetadaratho vyantībhūto dukhakkhamo,
assādaṃ nādhigacchāmi phalesvaññesu kesupi.
2717. Ta đây không còn trạng thái đuối sức, và trái xoài chín đã hết. Ta có sức chịu đựng sự khốn khó, nhưng ta không đạt đến sự hứng thú ở các loại trái cây nào khác.
5. Phần ăn dần hết, bớt thèm thuồng
Tuy thế lòng ta vẫn tiếc luôn:
Trong các trái nào ta kiếm được
Ta đều không thấy vị thơm ngon!
2718. Sosetvā nūna maraṇaṃ taṃ mamaṃ āvahissati,
ambaṃ yassa phalaṃ sāduṃ madhuraggaṃ manoramaṃ, yamuddhariṃ vuyhamānaṃ udadhismā mahaṇṇave.
2718. Trái xoài ấy là thứ trái cây ngon, có vị ngọt đậm đà, làm thích ý, mà ta đã vớt nó lên trong lúc nó đang trôi nổi từ đầm nước ở trong biển lớn. Chẳng lẽ sau khi không có nó để thọ dụng, nó sẽ mang lại cái chết cho ta?
6. Héo hắt ta đà mỏi mắt trông
Xoài ngon ta lượm ở bên dòng
Sẽ làm ta chết, ta lo sợ
Chẳng trái cây nào ta ước mong!
2719. Akkhātaṃ te mayā sabbaṃ yasmā upavasāmahaṃ, rammaṃ patinisinnosmi puthulomāyutā puthu.
2719. Tất cả đã được ta giải thích cho nàng vì sao ta chịu đói khát, (mặc dù) ta ngồi bên cạnh dòng sông đáng yêu có nhiều loại cá.
7. Vì sao giữ giới đã trình nàng
Cho dẫu ta đang ở cạnh dòng
Sóng vỗ chập chùng, bao loại cá
Ðầy đàn bơi lội cứ tung tăng
2720. Tvaṃ ca kho me akkhāsi attānamapalāyinī,
kā vā tvamasi kalyāṇi kissa vā tvaṃ sumajjhime.
2720. Hỡi cô nàng (dạn dĩ) không trốn chạy, nàng hãy nói với ta về bản thân. Này mỹ nữ, nàng là ai? Hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, vì sao nàng đi đến đây?
8. Nay ta cầu khẩn nói cho ta
Chớ sợ hãi rồi bỏ chạy xa,
Hỡi nàng tố nữ, là ai đó?
Tại sao nàng lại đến đây mà?
2721. Ruppa paṭṭapaḷimaṭṭhīva vyagghiva girisānujā,
yā santi nāriyo devesu devānaṃ paricārikā.
2721. Những người nữ trong số chư Thiên, các nàng hầu của chư Thiên, trông tựa như những dải lụa vàng bóng loáng, tựa như những chú cọp con (xinh xắn) được sanh ra ở vùng núi non.
9. Thị nữ chư Thiên đẹp tuyệt vời
Khác nào vàng óng ánh ngời soi!
Xinh như bầy hổ còn thơ dại
Dọc các sườn non vẫn giỡn chơi
2722. Yāva manussalokasmiṃ rūpenatvāgatitthiyo
rūpe te sādisī natthi devesu gandhabbamanussaloke,
phuṭṭhāsi me cārupubbaṅgi brūhi akkhāhi me nāmañca bandhave ca.
2722. Cho đến các phụ nữ được phú cho sắc đẹp ở thế giới nhân loại, người sánh bằng với nàng về sắc đẹp là không có ở giữa chư Thiên, ở các Càn-thát-bà, và ở thế giới loài người. Hỡi nàng có đôi chân đẹp, được ta hỏi, xin nàng hãy trả lời. Nàng hãy nói cho ta về danh tánh và về các thân quyến.”
10. Cũng ở nơi đây cõi thế gian,
Muôn vàn vẻ đẹp lắm hồng nhan
Song không ai giữa nhân Thiên ấy
Lại dam khoe tươi với nữ hoàng!
Ta hỏi nữ thần muôn diễm lệ
Ðược trời phú mọi vẻ thiên quang
Xin cho ta biết phương danh tánh
Nơi chốn xuất thân quí tộc nàng
2723. Yaṃ tvaṃ patinisinnosi rammaṃ brāhmaṇa kosikiṃ, sāhaṃ bhusālayā vutthā varavārivahoghasā.
2723. “Này vị Bà-la-môn, ngài ngồi bên cạnh dòng sông Kosikī đáng yêu, còn thiếp đây sống ở trú xứ nhộn nhịp với những dòng nước triều và nước lũ.
11. Trên dòng sông nước thật xinh tươi
Bên cạnh Hằng giang đạo sĩ ngồi
Bá chủ ngôi cao ta ngự trị
Dưới vùng sâu thắm, thủy triều trôi
2724. Nānādumagaṇākiṇṇā bahūtā girikandarā,
mameva pamukhā honti abhisandanti pāvuse.
2724. Nhiều hang núi được xen lẫn với những đám cây cối khác loại tuôn chảy vào mùa mưa khiến chính thiếp trở thành dòng chảy tiên phong.
12. Cầm quyền ngàn thạch động chung quanh
Che phủ rừng cây rậm lá xanh
Từ đó bao dòng tràn ngập chảy
Hòa theo với sóng nước sông mình
2725. Atho bahū vanā todā nīlavārivahandharā,
bahukā nāgacittodā abhisandanti vārinā.
2725. Và còn có nhiều nguồn nước chảy ra từ các cánh rừng mang theo dòng nước màu lục, có nhiều dòng nước đầy màu sắc của các con rồng tuôn chảy với nguồn nước (dồi dào).
13. Mỗi khu rừng, mỗi khóm vườn cây
Ðưa đến Long cung lắm suối đầy
Ðổ xuống bao nguồn nước xanh biếc
Ngập dòng bát ngát của ta này
2726. Tā ambajambulabujā nīpā tālā cudumbarā,
bahūni phalajātāni āvahanti abhiṇhaso.
2726. Các dòng nước ấy luôn luôn mang theo nhiều loại trái cây như trái xoài, trái đào đỏ, trái sa-kê, trái nīpa, trái thốt nốt, và trái sung.
14. Lệ thường trên các phụ lưu này
Nhiều trái sinh từ đủ loại cây
Ðào đỏ, chà là, sung mít vả
Với xoài, người thấy rõ ràng ngay
2727. Yaṃ kiñci ubhato tīre phalaṃ patati ambuni,
asaṃsayaṃ taṃ sotassa phalaṃ hoti vasānugaṃ.
2727. Bất cứ trái cây nào ở hai bên bờ rơi rụng xuống nước, chắc chắn rằng trái cây ấy bị cuốn trôi theo mãnh lực của dòng nước chảy.
15. Trái kia đều mọc mỗi bên bờ
Rơi xuống vừa tầm với của ta
Ta bảo của trời cho chánh đáng
Danh ta, ai có thể gièm pha?
2728. Etadaññāya medhāvi puthupañña suṇohi me,
mā rocayamabhisaṅgaṃ paṭisedha janādhipa.
2728. Thưa bậc thông minh, thưa bậc có trí tuệ bao la, sau khi biết rõ điều ấy, xin ngài hãy lắng nghe thiếp. Thưa bậc quân vương, chớ vui thích sự bám víu (vào tham ái). Hãy chặn đứng điều ấy.
16. Hiểu thông điều ấy lắng nghe đây
Hỡi đại vương thông tuệ, trí tài
Chớ đắm tham vào tâm dục vọng
Bỏ ngay lời nguyện đáng chê bai
2729. Na cāhaṃ vaddhavaṃ maññe yaṃ tvaṃ raṭṭhābhivaddhana, āceyyamāno rājisi maraṇaṃ abhikaṅkhasi.
2729. Thưa bậc làm hưng thịnh đất nước, thưa nhà vua ẩn sĩ, thiếp không nghĩ rằng việc ngài mong mỏi cái chết trong lúc còn trẻ tuổi là điều sáng suốt.
17. Ðại vương xưa ngự trị giang sơn
Nay việc ngài, ta chẳng tán dương
Muốn chết giữa mùa xuân tuổi trẻ
Rõ ràng biểu lộ đại điên cuồng
2730. Tassa jānanti pitaro gandhabbā ca sadevakā,
ye cāpi isayo loke saññatattā yasassino, asaṃsayante jānanti vaddhabhūtā yasassino.
2730. Các bậc cha ông, các Càn-thát-bà, luôn cả chư Thiên, biết được bản tính tham ái của ngài đây, và thậm chí các vị ẩn sĩ có bản thân thu thúc, có danh tiếng ở thế gian, và những người lớn tuổi, có danh vọng, chắc chắn rằng những người ấy cũng biết.”
18. Giáo sĩ, chư thần, quý hiển linh
Mọi người biết hạnh nghiệp uy danh
Của ngài, mọi Thánh nhân thanh tịnh
Dưới thế đã thành tựu hiển vinh
Quả thấy việc ngài làm trái đạo
Hiền nhân tất cả biểu đồng thanh!
2731. Evaṃ viditvā vidū sabbadhammaṃ viddhaṃsanaṃ cavanaṃ jīvitassa, nācīyati tassa narassa pāpaṃ sace na ceteti vadhāya tassa.
2731. “Các bậc hiểu biết dã hiểu rõ như vậy về tất cả các thiện pháp, về sự tan rã, về sự tiêu hoại của mạng sống. Tội ác không bị tích lũy cho người nam ấy, nếu người ấy không suy nghĩ về việc giết hại kẻ khác.
19. Ai biết đời người thật mỏng manh
Mọi loài dục giới thoáng qua nhanh
Không hề nghĩ đến điều sinh sát
Mà trú an trong mọi hạnh lành
2732. Isipūgasamaññāte evaṃ lokyā viditā sati,
anariya parisambhāse pāpakammaṃ jigiṃsasi.
2732. Hỡi cô nàng được tôn trọng bởi tập thể các ẩn sĩ, trong khi nàng được thể gian biết đến như vậy, nàng lại muốn tạo ra ác nghiệp ở việc chê bai không thánh thiện.
20. Xưa nàng được hội Thánh tôn vinh
Là bậc làm công đức sáng danh
Nay lại giao du nhiều kẻ ác
Tiếng xấu nàng đang cố tạo thành!
2733. Sace ahaṃ marissāmi tīre te puthu sussoṇi,
asaṃsayaṃ asiloko mayi pete āgamissati.
2733. Hỡi nữ thần có cặp mông nở nang xinh xắn, nếu như ta chết ở bờ sông của nàng, chắc chắn rằng tiếng xấu sẽ đến với nàng khi ta đã ra đi.
21. Ví ta chết cạnh bến sông nàng
Hỡi nữ thần dung sắc vẹn toàn
Tiếng xấu trùm lên nàng tất cả
Khác nào mây phủ giữa không gian!
2734. Tasmā hi pāpakaṃ kammaṃ rakkhasseva sumajjhime, mā taṃ sabbo jano pacchā pakatthāsi mayi mate.
2734. Chính vì điều ấy, hỡi cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng hãy bảo vệ hành động xấu xa (của ta trong việc ham muốn trái xoài). Chớ để sau này, khi ta đã chết, tất cả mọi người lại phỉ báng nàng.”
22. Vậy kiều tiên hỡi, lão van nàng
Hãy tránh xa điều ác, sợ rằng
Mặc lão chết đi, rồi hối tiếc
Làm trò đàm tiếu giữa trần gian!
2735. Aññātametaṃ avisayhasāhi attānaṃ ambaṃ ca dadāmi te taṃ, yo duccaje kāmaguṇe pahāya santiñca dhammañca adhiṭṭhitosi.
2735. “Thưa vị có sự chịu đựng việc không thể chịu đựng, điều ấy đã được biết rõ. Thiếp sẽ đích thân biếu trái xoài ấy đến ngài. Ngài đây, sau khi dứt bỏ các loại dục khó thể từ bỏ, ngài hãy duy trì sự an tịnh và thiện pháp.
23. Ta biết ngài thầm kín ước mong
Và ngài nhẫn nhục thật cam tâm
Ta cam đành phận làm tỳ nữ
Ðem đến xoài ngon tặng đạo nhân
Kìa ác dục từ bao thưở trước
Khó thay bỏ lạc thú phàm trần
Ngài đã đạt đến tâm thanh tịnh
Và trí bình an, phải giữ luôn.
2736. Yo hitvā pubbasaṃyogaṃ pacchā saṃyojane ṭhito, adhammañceva carati pāpañcassa pavaḍḍhati.
2736. Kẻ nào sau khi từ bỏ sự ràng buộc trước đây, rồi lại dính vào sự ràng buộc sau này, và còn thực hành phi pháp nữa; sự xấu xa gia tăng cho kẻ ấy.
24. Người nào đã thoát buộc ràng xưa
Lại bám xiềng gông trước chuyện thừa
Phóng dật bước vào phi thánh đạo
Chất chồng ác nghiệp mãi luôn mà.
2737. Ehi taṃ pāpayissāmi kāmaṃ appossukko bhava,
upānayāmi sītasmiṃ viharāhi anussuko.
2737. Ngài hãy đến, thiếp sẽ giúp ngài đạt được điều mong muốn. Ngài hãy ít ham muốn. Hãy để thiếp đưa ngài đi, và ngài hãy trú ở nơi (rừng xoài) mát mẻ, không còn ham muốn nữa.
25. Ta tặng ngài điều nguyện khát khao,
Rồi ngài tiêu hết mọi ưu sầu,
Ta đưa ngài đến nơi êm mát,
Ngài sống đời an lạc biết bao!
2738. Taṃ puppharasamattehi vakkaṅgehi arindama,
koñcā mayūrā diviyā koyaṭṭhimadhusāliyā.
2738. Thưa vị thuần hóa kẻ thù, nơi ấy với những con chim bị say đắm hương vị của các bông hoa. Có các chim cò, các chim công, các chim sếu, và các chim sáo ngọt ngào thuộc cõi Trời.
26. Mây-na, cu-gáy, hạc, hồng nga,
Say mật quây quần cạnh khóm hoa,
Từng đám thiên nga cao vút lượn
Chim đồng, đàn khổng tước kiêu sa
Cùng nhau hòa tiếng ca êm ái
Ðánh thức rừng cây tỉnh giấc mơ!
2739. Kūjitā haṃsapūgehi kokilettha pabodhare,
ambettha vippasūnaggā palālakhalasannibhā,
kosumbhasalalā nīpā pakkatālavilambino.
2739. Được cất tiếng kêu cùng với bầy thiên nga, các con chim cu cu làm thức giấc chốn này. Ở đây, có những cây xoài với những chùm trái trĩu nặng ở đầu cành, trông giống như những bó lúa trĩu hạt, có những cây kosumbha, cây salala, cây nīpa, và những quầy trái thốt nốt chín treo lỏng thỏng.”
27. Hoa nghệ, Ka-dam-ba rộ bông
Khác nào rơm rạ ở trên đồng
Chà là, thốt nót, nồng nàn chín
Tô điểm chung quanh lủng lẳng chùm
Và giữa cây cành đầy trĩu trái
Xoài cây sung mãn, hãy nhìn trông!
2740. Mālī tiriṭī kāyūrī aṅgadī candanassado,
rattiṃ tvaṃ paricāresi divā vedesi vedanaṃ.
2740. “Là người có vòng hoa, có khăn đội đầu, có vòng đeo tay, có thoa trầm hương, ông hưởng thụ vào ban đêm, và cảm nhận thọ khổ vào ban ngày.
28. Suốt đêm, quán đảnh tiệc liên hoan
Vương miện trên mày lại được mang
Tô điểm cổ tay, đầy ngọc quí
Sáng ngày đau khổ thật kinh hoàng
2741. Soḷasitthisahassāni yā temā paricārikā,
evaṃ mahānubhāvosi abbhuto lomahaṃsano.
2741. Mười sáu ngàn phụ nữ này là những người hầu hạ của ông. Như vậy, ông có uy quyền lớn lao, ông thật phi thường, có sự dựng đứng lông.
29. Hàng ngàn tiên nữ hộ quanh ngài
Thần lực ngài kia thật đại tài!
Kỳ diệu biết bao quyền biến đổi
Khổ hình lại hóa cảnh bồng lai!
2742. Kiṃ kammamakari pubbe pāpaṃ attadukhāvahaṃ, yaṃ karitvā manussesu piṭṭhimaṃsāni khādasi.
2742. Ông đã tạo nghiệp gì xấu xa trong đời quá khứ khiến nó đem lại khổ đau cho bản thân? Sau khi đã làm nghiệp gì ở thế giới loài người khiến ông phải ăn các miếng thịt ở lưng?”
30. Ngài đã làm sao phải đọa đày?
Tội gì ngài hối tiếc ngày nay?
Sao từ lưng nọ nay ngài phải
Móc thịt mình ăn lại mỗi ngày?
2743. Ajjhenāni paṭiggayha kāmesu gathito ahaṃ,
acariṃ dīghamaddhānaṃ paresaṃ ahitāyahaṃ.
2743. “Sau khi tiếp thu các môn học, tôi bị tham đắm ở các dục. Tôi đã hành xử điều bất lợi đến những người khác trong một thời gian dài.
31. Xưa thân thọ hưởng thánh tam kinh
Song ác nghiệp giam hãm đắm mình
Việc ác đã làm cho bạn hữu
Bao năm ròng, cuộc sống trôi nhanh
2744. Yo piṭṭhimaṃsiko hoti evaṃ ukkacca khādati,
yathāhamajja khādāmi piṭṭhimaṃsāni attano ”ti.
2744. Hôm nay tôi ngấu nghiến những miếng thịt lưng của chính mình như thế nào, thì kẻ nói xấu sau lưng người khác sẽ phải rứt ra (những miếng thịt lưng) rồi nhai tương tự như thế ấy.”
32. Kẻ nào phỉ báng các tha nhân
Cứ thích rình mò phá tiếng thơm
Phải móc thịt mình ăn lại mãi
Như ta việc ấy hiện đang làm!
Kiṃchandajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Mong Muốn Gì. [511]
***
▪ 2. KUMBHAJĀTAKAṂ – BỔN SANH CÁI BÌNH RƯỢU
512. Chuyện bình rượu (Tiền thân Kumbha)
2745. Ko pāturāsi tidivā nabhamhi obhāsayaṃ saṃvariṃ candimāva, gattehi te rasmiyo niccharanti sateritā vijjurivantalikkhe.
2745. “Ngài là ai mà đến từ Thiên cung và hiện ra ở trên bầu trời? Ngài đang chiếu sáng đêm đen tựa như mặt trăng. Các hào quang phát ra từ thân thể của ngài tựa như tia chớp Sateritā ở không trung.
1. Ngài là đại sĩ hiện trên không
Mình phóng hào quang rực ánh hồng
Như chớp ngang trời đang lóe sáng
Ðêm đen kịt chiếu ánh trắng trong.
2746. So chinnavātaṃ kamasi aghamhi vehāsayaṃ gacchasi tiṭṭhasī ca, iddhī nu te vatthukatā subhāvitā
anaddhaguṇamapi devatānaṃ.
2746. Ngài đây lướt gió bước đi ở bầu trời. Ngài đi và đứng ở không trung. Thần thông của ngài đã được tạo thành nền tảng, đã khéo được phát triển, phải chăng nó không thuộc về các khách lữ hành, mà thuộc về chư Thiên?
2. Giữa chốn bao la, lượt nhẹ mình,
Ði đứng trong khoảng chẳng âm thanh.
Lực thần ngài đạt, ôi vi diệu,
Chứng tỏ ngài thần thánh hiển linh
2747. Vehāsayaṃ kamamāgamma tiṭṭhasi kumbhaṃ kiṇāthāti yametamatthaṃ, ko vā tuvaṃ kissa vatāya kumbho akkhāhi me brāhmaṇa etamatthaṃ.
2747. Ngài đã đi đến theo đường không trung rồi đứng lại. Và ngài nói rằng: ‘Bệ hạ hãy mua cái bình.’ Ngài là ai? Cái bình này là của ai? Thưa vị Bà-la-môn, xin ngài hãy giải thích ý nghĩa ấy cho trẫm.”
3. Ðạo Sĩ, xin cho biết bậc nào
Vật gì trong ấy, chiếc bình cao
Giữa không trung giáng trần như vậy
Chắc muốn bán hàng cho trẫm sao?
2748. Na sappikumbho napi telakumbho na phāṇitassa na madhussa kumbho, kumbhassa vajjāni anappakāni
dose bahū kumbhagate suṇātha.
2748. “Nó không phải là bình bơ lỏng, cũng không phải là bình dầu, không phải là bình mật đường, không phải là bình mật ong. Các điều đáng chê trách của cái bình không phải là ít. Bệ hạ hãy lắng nghe nhiều tật xấu liên quan đến cái bình.
4. Bình không đựng lạc, chẳng dầu hương,
Chẳng phải mật ong, chẳng mía đường
Song chuyện xấu xa không kể xiết
Chứa đây trong bụng quả cầu tròn
2749. Galeyya yaṃ pītvā pate papātaṃ sobbhaṃ guhaṃ candaniyoḷi gallaṃ, bahumpi bhuñjeyya abhojaneyyaṃ tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2749. Người uống vào thức uống này thì có thể đi loạng choạng, có thể té ngã vào vực thẳm, hố rãnh, hang hốc, hầm phân, và nơi ô uế, thậm chí có thể ăn nhiều thức không nên ăn. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
5. Ai uống, tội thay kẻ dại khờ
Sẽ chìm trong hố thẳm đen dơ
Ðâm đầu trong vũng bùn ghê tởm,
Ăn phải vật xưa đã nguyện chừa,
Ðại đế, xin mua bình rượu nặng
Ðầy lên tận miệng của nhà ta.
2750. Yaṃ ve pītvā cittasmiṃ anesamāno āhiṇḍatī goriva bhakkhasādī, anāthamāno upagāyati naccati ca
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2750. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì không còn làm chủ tâm trí, tựa như con bò đi lang thang gặm cỏ; trong lúc không còn tự chủ, lại còn ve vãn ca hát, và nhảy múa. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
6.Rượu vào trí đảo lộn quay cuồng
Như chú bò ăn cỏ lạc đường
Tâm trí phiêu diêu, người lảo đảo.
Múa men ca hát suốt ngày trường.
Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
Cực mạnh, mua ngay, hỡi Ðại vương!
2751. Yaṃ ve pītvā acelakova naggo careyya gāme visikhantarāni, sammūḷhacitto ativelasāyī tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2751. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì giống như người lõa thể, không mặc y phục, rồi đi lang thang ở những đường lộ trong làng, có tâm trí bị đần độn, và ngủ quá mức bình thường. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
7. Người uống rượu trơ trẽn chạy rong
Khắp thành, như ẩn sĩ trần truồng
Ðến khuya nằm nghỉ , liền đâm hoảng
Quên cả thì giờ phải ngã lưng
Bình rượu ta đầy lên tận miệng
Cực nồng, mua lấy hỡi Quân vương!
2752. Yaṃ ve pītvā vuṭṭhāya pavedhamāno sīsañca bāhuñca pasārayanto, so naccati dārukaṭallakova
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2752. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì sau khi đứng dậy thường khuấy động, lúc lắc đầu, và vung vẩy cánh tay. Người ấy nhảy múa tựa như hình nhân múa rối bằng gỗ. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
8. Bợm rượu , như người hoảng múa men,
Ngã nghiêng, dường chẳng đứng ngồi yên
Tay chân run rẩy, đầu co giật
Như nộm gỗ nhờ tay kéo lên
Ðại đế, mua đi bình rượu đó
Ðầy lên tận miệng, rượu cay men.
2753. Yaṃ ve pītvā aggidaḍḍhā sayanti atho sigālehipi khāditāse, bandhaṃ vadhaṃ bhogajāniñcupenti
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2753. Thật vậy, những người uống vào thức uống này thì bị ngọn lửa thiêu đốt, nằm dài, rồi bị các chó rừng ăn thịt, đi đến tình trạng bị giam cầm, tử hình, và tiêu hao của cải. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
9. Bợm rượu bị thiêu đốt ruột gan,
Hoặc làm mồi lũ chó rừng hoang,
Dấn thân tù ngục hay thần chết
Còn phải chịu hao tốn bạc vàng
Bình rượu ta đầy lên tận miệng
Cực nồng, mua lấy, hỡi Vương quân!
2754. Yaṃ ve pītvā bhāseyya abhāsaneyyaṃ
sabhāyamāsīno apetavattho, sammakkhito vantagato vyasanno tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2754. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì có thể nói điều không nên nói, ngồi ở cuộc hội họp không mặc y phục, tự làm cho lem luốc, đi đến ói mửa, bị suy sụp. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
10. Túy ông mất hết vẻ thanh tao
Trò chuyện những điều bẩn thỉu sao!
Ngồi đứng trần truồng cùng đám bạn
Mọi đàng ô trọc , bệnh lao đao
Bình ta đầy rượu tràn lên miệng
Cực mạnh, quân vương hãy lấy vào!
2755. Yaṃ ve pītvā ukkaṭṭho āvilakkho mameva sabbapaṭhavīti maññati, na me samo cāturantopi rājā
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2755. Thật vậy, người uống vào thức uống này thì kiêu ngạo, mắt bị đỏ ngầu, nghĩ rằng: ‘Toàn bộ trái đất thuộc về một mình ta, thậm chí vị vua cai trị bốn phương cũng không sánh bằng với ta.’ Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
11. Kẻ uống thường hay thói tự cao,
Nhãn quang chẳng sáng suốt đâu nào,
“Thế gian của tớ”, lòng thầm nghĩ,
Chẳng có vua nào sánh kịp đâu!
2756. Mānātimānā kalahāni pesunī dubbaṇṇinī naggiyinī palāyinī, corāna dhuttāna gatī niketo
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2756. (Thức uống này là vật tạo ra) ngã mạn và ngã mạn thái quá, các sự cãi cọ, các việc nói đâm thọc, các vóc dáng xấu xí, các sự lõa lồ, các sự trốn chạy, nó là đích đến, là chỗ trú của những kẻ trộm cướp, của những gã vô lại. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
12. Rượu nồng là thứ đại kiêu căng
Ác quỷ nhát gan tựa nhộng trần,
Kết hợp đánh nhau và phỉ báng
Ấy nhà cho trộm, điếm dung thân.
2757. Dhaññaṃ dhanaṃ rajataṃ jātarūpaṃ khettaṃ gavaṃ yattha vināsayanti, ucchedanī vittavataṃ kulānaṃ tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2757. Bị lệ thuộc vào thức uống này, nhiều người làm tiêu tan thóc lúa, tài sản, bạc vàng, ruộng vườn, trâu bò. Thức uống này là sự phá hoại đối với những gia đình có của cải. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
13. Dù gia đình có thật giàu sang
Hưởng thọ kho vô số bảo tàng
Giữ của trời cho phong phú nhất
Rượu này cũng sẽ phá tan hoang
2758. Iddhāni phītāni kulāni assu anekasāhassadhanāni loke, ucchinnadāyajjakatānimāya tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2758. Có những gia đình giàu có, thịnh vượng, có tài sản nhiều ngàn tiền vàng ở thể gian, bị làm cho tiêu hoại phần gia tài thừa kế bởi vì thức uống này. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
14. Bạc vàng, đồ đạc ở trong nhà
Ðồng ruộng, trâu bò, thóc vựa kho
Ta sợ tiêu vong vì rượu mạnh
Là mầm suy sụp của toàn gia
2759. Yaṃ pītvā duṭṭha rūpova poso akkosati pitaraṃ mātarañca, sassumpi gaṇheyya athopi suṇhaṃ
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2759. Sau khi uống vào thức uống này, người nam như là có dáng vẻ tồi bại, mắng nhiếc cha và mẹ, và có thể cưỡng ép mẹ vợ, rồi luôn cả con dâu. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
15. Túy ông đầy nặng tính kiêu căng
Phỉ báng cả hai bậc lão thân,
Thách đố bà con cùng máu huyết
Dám làm ô uế mối hôn nhân
2760. Yaṃ ve pītvā duṭṭharūpāva nārī akkosati sasuraṃ sāmikañca, dāsampi gaṇhe paricārakampi tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2760. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, người nữ như là có dáng vẻ tồi bại, mắng nhiếc cha chồng và chồng, và có thể cưỡng ép đầy tớ trai, luôn cả người nam hầu cận. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
16. Nữ nhân uống rượu cũng kiêu căng
Phỉ báng chồng mình lẫn phụ thân
Bất chấp thanh danh nhà quý tộc
Biến thành nô lệ tính điên khùng
2761. Yaṃ ve pivitvāna haneyya poso dhamme ṭhitaṃ samaṇaṃ brāhmaṇaṃ vā, gacche apāyampi tato nidānaṃ tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2761. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, người nam có thể giết hại vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn đã trú vào thiện pháp, do nguyên nhân ấy có thể đi đến cảnh giới khổ đau. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
17. Bợm rượu, gan liều dám sát nhân
Sa môn chân chính Bà-la-môn,
Rồi cùng mọi cõi đời đau khổ
Hối tiếc hành vi quá bạo tàn
2762. Yaṃ ve pītvā duccaritaṃ caranti kāyena vācāya ca cetasā vā, nirayaṃ vajanti duccaritaṃ caritvā
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2762. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người thực hành uế hạnh bằng thân, bằng lời, hoặc bằng ý; sau khi thực hành uế hạnh thì đi đến địa ngục. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
18. Rượu vào, phạm ác nghiệp ba phần:
Lời nói, việc làm với ý tâm
Địa ngục chìm sâu đầy khổ não
Vì hành động ác tạo sai lầm
2763. Yaṃ yācamānā na labhanti pubbe bahuṃ hiraññampi pariccajantā, so taṃ pivitvā alikaṃ bhaṇāti
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2763. Trước đây, trong khi bỏ ra nhiều vàng rồi yêu cầu kẻ nào đó (nói dối), nhưng không thành công, kẻ ấy (giờ đây), sau khi uống thức uống ấy, liền nói điều giả dối. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
19. Có kẻ, người năn nỉ uổng công
Dù đem dâng mấy đống vàng, song
Khi say, chúng dụ theo đường chúng
Lời dối tuôn ra cũng sẵn lòng
2764. Yaṃ ve pītvā pesane pesayanto accāyike karaṇīyamhi jāte, atthampi so nappajānāti vutto
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2764. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, kẻ được phái đi đưa tin vào lúc có công việc cần làm khẩn cấp sanh khởi, kẻ ấy cũng không biết ý nghĩa (lời nhắn gởi) khi được hỏi đến. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
20. Vì người say giữ việc thông tin
Gặp cảnh gian nguy đến đột nhiên
Hãy ngắm! Kẻ này thề thốt nặng:
“Việc này tâm trí chợt quên liền!”
2765. Hirīmanāpi ahirīkabhāvaṃ pātuṃ karonti madanāya mattā, dhīrāpi santā bahukaṃ bhaṇanti
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2765. Ngay cả những người có tâm ý gắn bó với sự hổ thẹn, khi bị say sưa bởi chất say, cũng phô bày bản tánh không hổ thẹn. Ngay cả các bậc sáng trí, trong khi say sưa, cũng nói nhiều. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
21. Ngay người thanh lịch nhất, khi say
Cũng hóa ra phường tục tử ngay
Ðệ nhất trí nhân mà túy lúy
Cũng huyên thuyên nói xuẩn ngu đầy!
2766. Yaṃ ve pītvā ekathūpā sayanti anāsakā thaṇḍiladukkhaseyyaṃ, dubbaṇṇiyaṃ āyasakyañ cupenti tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2766. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người nằm một đống ở chỗ nằm khổ sở là nền đất cứng, không ăn uống, rồi đạt đến vóc dáng xấu xí và sự mất danh tiếng. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
22. Uống nhiều, nhịn đói, ngã chơi vơi
Ðất cứng trần là chỗ nghỉ ngơi
Lúc nhúc trẽn trơ như lũ lợn
Chịu bao nhục nhã nhất trên đời
2767. Yaṃ ve pītvā pattakkhandhā sayanti gāvo kūṭahatāriva, nahi vāruṇiyā vego narena sussaho riva.
2767. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, nhiều người có thân hình bị đổ xuống, nằm dài, tựa như con bò bị đánh bởi cái búa tạ, bởi vì với rượu mạnh thì không còn sự mau mắn, dường như với người nam thì có sự khéo chịu đựng.
23. Như bò, bị đánh ngã trên trên sàn
La liệt nằm từng đống hỗn mang
Ngọn lửa chứa trong men rượu nặng
Sức người không thể sánh ngang bằng
2768. Yaṃ manussā vivajjenti sappaṃ ghoravisammiva, taṃ loke visasamānaṃ ko naro pātumarahati.
2768. Loài người tránh xa thức uống này như là tránh xa con rắn có nọc độc dữ dội, vậy người nam nào ở thế gian có khả năng để uống thứ nước sánh bằng với nọc độc ấy?
24. Mọi người kinh hoảng vội lùi ra.
Tránh độc dược kia tựa độc xà
Dũng sĩ to gan nào giải khát
Cho mình bằng rượu giết người ta?
2769. Yaṃ ve pītvā andhakaveṇhuputtā samuddatīre paricārayantā, upakkamuṃ musalehaññamaññaṃ
tassā puṇṇaṃ kumbhamimaṃ kiṇātha.
2769. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, những người con trai của Andhaka và Veṇhu, trong lúc dạo chơi ở bờ biển, đã đánh đập lẫn nhau bằng những cái chày. Quý vị hãy mua cái bình này, nó được chứa đầy thức uống ấy.
25. Ta chắc sau khi uống rượu nồng
And-ha tộc, với Vrish-ni cùng
Lang thang bờ biển rồi nhào xuống
Vì chiếc chùy kia của họ hàng
2770. Yaṃ ve pītvā pubbadevā pamattā tidivā cutā sassatiyā samāyā, taṃ tādisaṃ majjamimaṃ niratthakaṃ jānaṃ mahārāja kathaṃ pibeyya.
2770. Thật vậy, sau khi uống vào thức uống này, chư Thiên trong thời quá khư bị say sưa, rồi bị lìa khỏi cõi Trời Tam Thập vĩnh viễn cùng với phép thần. Tâu đại vương, trong khi biết chất say này là không có lợi ích giống như thức uống ấy, làm sao người ta có thể uống được?
26. Tiên say bị đọa khỏi cung trời
Thần lực mất liền, Ðại đế ơi!
Ai muốn nếm mùi ghê tởm ấy,
Mua đi bình rượu của nhà tôi!
2771. Nayimasmiṃ kumbhasmiṃ dadhi vā madhuṃ vā,
evaṃ abhiññāya kiṇāhi rāja, evaṃ hi maṃ kumbhagatā mayā te akkhātarūpaṃ tava sabbamitta.
2771. Tâu bệ hạ, trong bình này không phải là sữa đông hay mật ong, bệ hạ phải biết rõ như vậy rồi hãy mua. Này Sabbamitta, thức uống chứa đựng ở trong cái bình này, như đã được ta giải thích cho bệ hạ, đúng là như vậy và thuộc về bệ hạ.
27. Chẳng phải sữa chua, mật ngọt đây
Song ngài luôn nhớ mãi từ nay
Cái gì chứa đựng trong bầu ấy
Ðại đế xin mua lấy rượu này!
2772. Na me pitā vā athavāpi mātā etādiso yādisako tuvaṃsi, hitānukampī paramatthakāmo sohaṃ karissaṃ vacanaṃ tavajja.
2772. “Ngài không phải là cha hay là mẹ của trẫm, nhưng họ như thế nào thì ngài như thế ấy; ngài là người hữu ích và có lòng trắc ẩn, có sự ước muốn về mục đích tối thượng. Hôm nay, trẫm đây sẽ làm theo lời nói của ngài.
28. Chẳng song thân dạy khéo như ngài
Ngài thật nhân tử, thiện hảo thay,
Chân lý ngài tìm ra tối thượng
Trẫm vâng lời dạy bảo hôm nay
2773. Dadāmi te gāmavarāni pañca dāsīsataṃ satta gavaṃ satāni, ājaññayutte ca rathe dasā ime ācariyo hosi mamatthakāmo.
2773. Trẫm ban cho ngài ân huệ là năm ngôi làng, một trăm nữ tỳ, bảy trăm con bò cái, và mười cỗ xe kéo này đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng. Ngài hãy là thầy dạy học có lòng mong mỏi đến sự lợi ích của trẫm.”
29. Năm đệ nhất thôn của trẫm ban
Bảy trăm bò, thị nữ trăm nàng
Mười xe tuấn mã thuần cao quý.
Vì lợi ích ngài đã dạy răn
2774. Taveva dāsī satamatthu rāja gāmā ca gāvo ca taveva hontu, ājaññayuttā ca rathā taveva sakkohamasmi tidasānamindo.
2774. “Tâu bệ hạ, một trăm nữ tỳ là thuộc về chính bệ hạ, các ngôi làng và bầy bò là thuộc về chính bệ hạ, và các cỗ xe kéo đã được thắng vào những con ngựa thuần chủng là thuộc về chính bệ hạ. Ta là Thiên Chủ Sakka, chúa của chư Thiên cõi Tam Thập.
30. Một trăm thị nữ vẫn nhà ngài
Làng mạc, đàn bò, cũng mặc ai
Chẳng ngựa xe, đòi thuần chủng quý
Sak-ka Thiên chủ chính danh này
2775. Maṃsodanaṃ sappipāyañca bhuñja khādassu ca tvaṃ madhumāsapūve, evaṃ tuvaṃ dhammarato janinda anindito saggamupehi ṭhānanti.
2775. Bệ hạ hãy thọ dụng cơm thịt và cơm sữa. Bệ hạ hãy nhai bánh đậu và mật ong. Tâu vị chúa của loài người, được vui thích với thiện pháp như vậy, bệ hạ là người không bị chê trách, và sẽ đạt đến vị thế cõi trời.”
31. Hưởng đủ bơ tươi, thịt ướp, cơm
Vui lòng ăn bánh mật men thơm
Thích nhiều chân lý ta vừa dạy
Trong sạch cõi Thiên đến đúng đường.
Kumbhajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Cái Bình Rượu. [512]
***
▪ 3. JAYADDISAJĀTAKAṂ – BỔN SANH VUA JAYADDISA
513. Chuyện vương tử chiến thắng (Tiền thân Jayaddisa)
2776. Cirassaṃ vata me udapādi ajja bhakkho mahā sattamibhattakāle, kutosi ko vāsi tadiṅgha brūhi
ācikkha jātiṃ vidito yathāsi.
2776. “Quả thật đã lâu lắm mới có một bữa ăn thịnh soạn sanh lên cho ta hôm nay, vào bữa ăn lần thứ bảy. Ngươi từ đâu đến? Hoặc ngươi là ai? Nào, hãy nói ra điều ấy. Hãy khai báo dòng dõi như ngươi đã được biết.”
1. Kìa! Bảy ngày qua chịu đói lòng
Mồi ngon bỗng xuất hiện sau cùng
Phải chăng danh tiếng ngươi lừng lẫy?
Ta muốn biết tên họ, giống dòng.
2777. Pañcālarājā migavaṃ paviṭṭho jayaddiso nāma yadissuto te, carāmi kacchāni vanāni cāhaṃ
pasadimaṃ khāda mamajja muñca.
2777. “Trẫm là vua xứ Pañcāla tên Jayaddisa đang đi săn thú, nếu ngươi đã được nghe tin. Trẫm lang thang ở các đầm lầy và các khu rừng. Hôm nay, ngươi hãy ăn thịt con hươu này và hãy thả trẫm ra.”
2. Nếu ngươi biết Chiến Thắng là vua
Của xứ Pãn-ca, quốc độ ta!
Săn bắn trong rừng ta lạc bước,
Xin dùng hươu nọ thả ta ra.
2778. Seneva tvaṃ paṇasi sassamāne mameso bhakkho pasado yaṃ vadesi, taṃ khādiyāna pasadaṃ jighaññaṃ khādissaṃ pacchā na vilāpakālo.
2778. “Trong khi bị hãm hại, ngài đánh đổi mạng sống bằng chính vật sở hữu của mình. Con hươu này sẽ là thức ăn của ta là điều ngài nói. Ta sẽ ăn ngài là vật nên ăn (trước), còn con hươu kém ngon hơn ta sẽ ăn sau. Giờ không phải là lúc nói nhảm.”
3. Muốn cứu mạng, ngài đã hiến dâng
Mồi kia ngon thật đấy Quân vương
Ta xơi ngài trước và không bỏ
Thú nếm thịt hươu: chớ nói quàng!
2779. Na catthi mokkho mama vikkayena gantvāna pacchā gamanāya paṇhe, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ.
2779. “Không có việc trốn tránh đối với sự đánh đổi của trẫm. Trẫm ra đi rồi sau đó trở lại vào sáng sớm ngày mai. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, trẫm sẽ quay trở lại.”
4. Vì ta chẳng thuộc mạng an toàn
Ðược thả như ta khẩn thiết van
Thì hãy cho ta tròn hứa cũ
Ta đà giao ước Bà-la-môn
Sáng mai cứu được lời danh dự
Rồi sẽ trở về với quỷ nhân.
2780. Kiṃ kammajātaṃ anutappatī taṃ pattaṃ samīpaṃ maraṇassa rāja, ācikkha me taṃ api sakkuṇemu anujānituṃ āgamanāya paṇhe.
2780. “Này đức vua, việc gì khiến ngài lo lắng, khi ngài đã đến bên cạnh cái chết? Hãy nói việc ấy với ta, thậm chí ta có thể cho phép ngài quay lại vào sáng sớm ngày mai.”
5. Ðến gần chỗ chết chẳng an lòng
Lo lắng việc gì hỡi Ðại vương
Nói thật cho ta rồi có thể
Ta bằng lòng thả một ngày ròng.
2781. Katā mayā brāhmaṇassa dhanāsā taṃ saṅgaraṃ paṭimokkhaṃ na muttaṃ, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajissaṃ.
2781. “Sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi trẫm, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, trẫm sẽ bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi sẽ quay trở lại.”
6. Ta hứa lời cùng một đạo nhân
Nợ kia chưa trả, hứa cho xong
Mong tròn nguyện ước, thanh danh cứ
Ta sẽ gặp ngài buổi rạng đông.
2782. Yaṃ te katā brāhmaṇassa dhanāsā taṃ saṅgaraṃ paṭimokkhaṃ na muttaṃ, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya saccānurakkhī punarāvajassu.
2782. “Về sự mong mỏi tài sản của vị Bà-la-môn đã được thực hiện bởi ngài, và điều đã được thỏa thuận ấy còn bị vướng lại, chưa được tháo gỡ. Là người bảo vệ sự chân thật, ngài hãy bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi hãy quay trở lại.”
7. Ngài đã hứa cùng một đạo nhân
Nợ kia chưa trả, hứa chưa xong
Mong tròn nguyện ước thanh danh cứu
Rồi trở về đây buổi rạng đông.
2783. Mutto ca so purisādassa hatthā gantvā sakaṃ mandiraṃ kāmakāmī, taṃ saṅgaraṃ brāhmaṇassappadāya āmantayī putta malīnasattaṃ.
2783. Và vị vua ấy đã được thoát khỏi vòng tay của kẻ ăn thịt người. Vị có sự đeo đuổi ước muốn, sau khi di đến cung điện của mình, đã bàn giao cho vị Bà-la-môn điều đã được thỏa thuận ấy, rồi đã nói với hoàng tử Alīnasatta rằng:
8. Thoát ác quỷ kia, lại trở về
Nhà yêu, mộng nước đẹp tràn trề
Với La-môn bạn, không sai hứa
Song dặn A-lin quý tử kia.
2784. Ajjeva rajjaṃ abhisecayassu dhammañca raṭṭhesu janesu cāpi, adhammakāro ca te māhu raṭṭhe
gacchāmahaṃ porisādassa ñatte.
2784. “Nội trong ngày hôm nay, con hãy làm lễ đăng quang vương quyền và luật pháp ở trong các xứ sở và luôn cả ở nơi các người dân. Và con chớ có các hành động bất công trong xứ sở, trẫm sẽ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người.”
9. Vương nhi nay nhận chức Quân vương
Cai trị bạn thù thật chính chân
Ðừng để bất công làm hại nước
Cha đành nộp mạng chốn hung thần.
2785. Kiṃ kamma kubbaṃ tava deva pāde nārādhayiṃ tadicchāmi sotuṃ, yamajja rajjamhi udassaye tvaṃ
rajjampi na iccheyyaṃ tayā vinā ahaṃ.
2785. “Tâu phụ vương, con đã không làm cho phụ vương hài lòng trong khi làm công việc gì dưới quyền của phụ vương? Để rồi hôm nay phụ vương sẽ đưa con lên làm vua, con mong được nghe về điều ấy. Con không mong muốn ngay cả vương quyền, nhưng thiếu vắng phụ vương.”
10. Hoàng nhi mong biết rõ nguyên nhân
Khiến trẻ mất ân lộc phụ hoàng
Cha phải đưa con lên kế vị
Thiếu cha, con chẳng thiết ngai vàng.
2786. Na kammunā vā vacasāva tāta
aparādhitohaṃ tuviyaṃ sarāmi,
sandhiñca katvā purisādakena
saccānurakkhī punahaṃ gamissaṃ.
2786. “Này con thương, vào lúc này trẫm không nhớ đến lỗi lầm gì do hành động hay do chính lời nói của con. Là người bảo vệ sự chân thật, sau khi thực hiện điều cam kết với kẻ ăn thịt người, trẫm sẽ quay trở lại.”
11. Này con, cha chẳng thể tìm ra
Một ác ngôn hay một nghiệp tà
Song nợ thanh danh, giờ trả trọn
Còn lời nguyền giữ với yêu ma.
2787. Ahaṃ gamissāmi idheva hohi natthi tato jīvato vippamokkho, sace tuvaṃ gacchasiyeva rāja ahmpi gacchāmi ubho na homa.
2787. “Con sẽ đi, phụ vương hãy ở lại tại nơi này. Không có sự phóng thích đối với người còn sống từ nơi kẻ ấy. Tâu phụ vương, nếu phụ vương đi, con cũng đi nữa. Hãy để cả hai không còn tồn tại.”
12. Cha ở lại, đây con sẽ đi
Trở về an ổn, có gì mong
Nếu cha đi nữa, con theo gót
Phụ tử cùng nhau chẳng sống chi!
2788. Addhā hi tāta satānesa dhammo maraṇā ca me dukkhataraṃ tadassa, kammāsapādo taṃ yadā pacitvā
pasayha khāde bhidā rukkhasūle.
2788. “Này con thương, quả đúng thế, điều này là bản thể của các hiền nhân. Việc ấy đối với trẫm còn khổ sở hơn là cái chết, là vào lúc gã Kammāsapāda xuyên thủng con ở nơi cọc gỗ, nướng chín, rồi dùng bạo lực nhai ngấu nghiến.”
13. Vương tử , con theo đúng đạo trời
Song cha mất hết thú yêu đời
Nếu yêu tinh nọ dùng xiên gỗ
Nướng thịt con ăn trọn cả đời.
2789. Pāṇena te pāṇamahaṃ nimissaṃ mā tvaṃ agā porisādassa ñatte, etañca te pāṇamahaṃ nimissaṃ
tasmā mataṃ jīvitassa varemi.
2789. “Con có thể trao đổi mạng sống của phụ vương bằng mạng sống (của con). Phụ vương chớ đi đến nơi ở của kẻ ăn thịt người. Và con có thể trao đổi mạng sống này cho phụ vương, vì điều ấy, con chọn cái chết cho sự sống còn (của phụ vương).”
14. Nếu cha thoát được vuốt yêu tinh
Vì phụ vương, con nguyện bỏ mình
Hơn nữa con tràn trề hỷ lạc
Ðược đem đời hiến sinh thành.
2790. Tato have dhitimā rājaputto vandittha mātucca pitucca pāde, dukhinissa mātā nipatī pathabyā pitassa paggayha bhujāni kandati.
2790. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã đảnh lễ hai bàn chân của mẫu hậu và phụ vương. Người mẹ, khổ đau, đã ngã quỵ xuống đất, còn người cha đã đưa hai cánh tay lên, khóc lóc.
15. Thái tử anh hùng, xin vĩnh biệt
Cúi đầu ngài đảnh lễ song thân.
16. Phụ vương khóc lớn, giơ tay cản,
Hiền mẫu buồn thương, ngã lịm dần.
2791. Taṃ gacchantaṃ tāva pitā viditvā parammukho vandati pañjalīko, somo ca rājā varuṇo ca rājā pajāpatī candimā sūriyo ca, etehi gutto purisādakamhā
anuññāto sotthi paccehi tāta.
2791. Cho đến lúc biết được người con ấy đang bước đi, người cha, với mặt quay hướng khác, chắp tay lên, đảnh lễ các vị: Vua Soma, Vua Varuṇa, Thần Pajāpatī, Mặt Trăng, và Mặt Trời. “Này con thương, được các vị này bảo vệ, được cho phép từ kẻ ăn thịt người, con hãy trở về bình yên.”
17. Khi hình thái tử khuất mờ dần
Trước mắt thảm sầu của phụ thân
Cầu nguyện chư thần , tay chắp khấn
Va-rù-na với So-ma vương
Phạm thiên, nhật nguyệt, chư thần nữa,
Bảo vệ hoàng nhi được vạn an
Nhờ các thần linh này, thái tử
Mong con thoát ác quỷ kinh hoàng.
2792. Yaṃ daṇḍakāraññagatassa mātā romassakā sotthānaṃ suguttā tante ahaṃ sotthānaṃ karomi
etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi putta.
2792. “(Có câu chuyện) một người mẹ khéo được bảo vệ đã tạo ra sự bình yên cho Roma (con mình), là kẻ đã đi vào khu rừng Daṇḍaka; vậy hãy để mẹ tạo ra sự bình yên ấy cho con; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này con trai, được cho phép, con hãy trở về bình yên.”
18. Như mẹ Ra-ma đẹp dáng người
Cứu con nàng đã bặt tăm hơi
Khi vào rừng rậm Dam-da ấy
Con trẻ ta mong giải thoát thôi
Nhờ khấn lời chân thành, ước nguyện
Chư thần cho trở lại an vui.
2793. Āvī raho vāpi manopadosaṃ nāhaṃ sare jātumalīnasatte, etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi bhāta.
2793. “Tôi nhớ một cách chắc chắn là tôi đã không có ác ý nào đối với anh trai Alīnasatta (của tôi), dầu là lộ liễu hay kín đáo; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Này anh trai, được cho phép, anh hãy trở về bình yên.”
19. Hoàng huynh chẳng có lỗi lầm gì
Dù lộ rõ ràng hoặc giấu che
Chứng thực lời này, con nguyện ước
Chư thần mang thái tử quay về.
2794. Yasmā ca me anadhimanosi sāmi nacāpi me manasā appiyosi, etena saccena sarantu devā anuññāto sotthi paccehi sāmi.
2794. “Thưa tướng công, bởi vì chàng không có ý phụ bạc thiếp, và thiếp cũng không có ý nghĩ không yêu thương chàng; do sự chân thật này, mong rằng chư Thiên hãy ghi nhớ. Thưa tướng công, được cho phép, tướng công hãy trở về bình yên.”
20 Với thiếp, chàng không phạm lỗi lầm
Lòng đầy yêu dấu, hỡi lang quân
Chứng thực lời này xin ước nguyện
Thần thánh cho chàng trọn tấm thân.
2795. Brahā ujū cārumukho kutosi na maṃ pajānāsi vane vasantaṃ, luddañca maṃ ñatvā purisādakoti
ko sotthimājānamidhāvajeyya.
2795. “Ngươi cao to, ngay thẳng, có khuôn mặt khôi ngô, ngươi từ nơi nào đến? Ngươi không biết lão đang cư ngụ ở khu rừng hay sao? Sau khi biết được lão là kẻ hung bạo có biệt hiệu ‘kẻ ăn thịt người,’ người nào còn quan tâm đến sự bình yên, sao lại có thể đi đến nơi này?”
21. Chàng từ đâu đến, hỡi hoàng nam
Có biết rừng này của quỷ chăng?
Ai đến thật xem thường tính mạng
Nơi loài quỷ dữ chiếm làm hang.
2796. Jānāmi ludda purisādako tvaṃ na taṃ na jānāmi vane vasantaṃ, hañca puttosmi jayaddisassa mamajja khāda pituno pamokkhā.
2796. “Này kẻ hung bạo, ta biết ngươi là kẻ ăn thịt người. Không phải ta không biết ngươi đang cư ngụ ở khu rừng. Và ta là con trai của vua Jayaddisa. Vì việc giải thoát cho người cha, nên hôm nay, ngươi hãy ăn thịt ta.”
22. Ta biết rõ ngươi, quỷ bạo tàn
Chốn này ngươi ở giữa rừng hoang
Ta là đích tử Ja-ya đế,
Ăn thịt rồi , thả phụ vương.
2797. Jānāmi puttoti jayaddisassa tathāhi vo mukhavaṇṇo ubhinnaṃ, sudukkaraññeva kataṃ tavedaṃ yo mattumicche pituno pamokkhā.
2797. “Lão biết là ‘con trai’ của Jayaddisa, bởi vì khuôn mặt và vóc dáng của cả hai người các ngươi là giống nhau. Việc đã làm này của ngươi quả là việc làm vô cùng khó khăn, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha.”
23. Ta biết con trai chúa Ja-ya
Dáng chàng để lộ việc kia mà
Thật là gian khổ cho chàng quá
Phải chết vì thay mạng của cha.
2798. Na dukkaraṃ kiñcimahettha maññe yo mattumicche pituno pamokkhā, mātucca hetu paralokagamyā sukhena saggena ca sampayutto.
2798. “Ta nghĩ rằng bất cứ việc gì ở đây không phải là việc khó làm, là một người có thể chấp nhận cái chết vì việc giải thoát cho người cha và vì nguyên nhân của người mẹ, (người ấy) sau khi đi đến thế giới khác, sẽ đạt được hạnh phúc và cõi Trời.
24. Nghĩ rằng chẳng phải việc anh hùng
Ðược chết vì ân phước phụ thân
Và mẹ quý yêu khi bỏ mạng
Ðời đời hưởng cực lạc thiên cung.
2799. Ahañca kho attano pāpakiriyaṃ āvī raho cāpi sare na jātu, saṅkhātajāti maraṇohamasmi
yatheva me idha tathā parattha.
2799. Và thật vậy, ta nhớ một cách chắc chắn rằng bản thân ta không có bất cứ hành động xấu xa nào, dầu là lộ liễu hay kín đáo. Ta bị tạo tác bởi sanh và tử. Ở kiếp này, của ta là như thế nào thì ở kiếp sau sẽ là như vậy.
25. Nhớ ta không phạm lỗi lầm gì
Dù lộ ra ngoài hoặc giấu che
Sinh tử ta đều cân nhắc kỹ
Dù đây, hay các cõi sau về.
2800. Khādajja maṃdāni mahānubhāva karassu kiccāni imaṃ sarīraṃ, rukkhassa vāte papatāmi aggā chādayamāno mayhaṃ tvamadesi maṃsaṃ.
2800. Này lão có đại năng lực, lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này. Lão hãy làm các việc cần phải làm với thân xác này. Hay là ta rơi xuống từ chóp đỉnh của thân cây cho lão. Trong khi hứng thú, lão hãy ăn phần thịt của ta.”
26. Ăn thịt ta đây, hỡi quỷ nhân
Phải làm công việc ấy cho xong
Ta buông mình xuống trên cao chết
Người cứ ăn ta, thỏa nguyện lòng.
2801. Idañca te ruccati rājaputta cajāsi pāṇaṃ pituno pamokkhā, tasmātiha tvaṃ taramānarūpo sambhañja kaṭṭhāni jalehi aggiṃ.
2801. “Này hoàng tử, và việc này được ngươi ưa thích. Ngươi từ bỏ mạng sống vì việc giải thoát cho người cha. Vì thế, ở đây ngươi có vẻ gấp gáp. Ngươi hãy bẻ gãy các nhánh củi rồi đốt lên ngọn lửa.”
17. Nếu chàng tự nguyện muốn liều thân
Thái tử, đem đời cứu phụ vương
Ta bảo chàng rời ngay bước vội
Tìm gom củi đốt lửa than hừng.
2802. Tato have dhitimā rājaputto dārū samāhatva mahantamaggiṃ, ādīpayitvā paṭivedayittha
ādīpitodāni mahāyamaggi.
2802. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã gom lại các khúc gỗ và đốt cháy ngọn lửa lớn, rồi đã thông báo rằng: ‘Bây giờ, ngọn lửa lớn này đã được đốt cháy.’
27. Hoàng nam anh dũng nhặt cây rừng
Và chất cao lên một cái giàn
Và thét vừa châm: “Bày tiệc sẵn!
Hãy xem, ta nhóm lửa cho hừng!”
2803. Khādajja maṃ dāni pasayhakārī kiṃ maṃ muhuṃ pekkhasi haṭṭhalomo, tathā tathā tuyhamahaṃ karomi yathā yathā maṃ chādayamāno adesi.
2803. “Lão hãy ăn thịt ta ngày hôm nay, vào lúc này, bằng hành động bạo lực. Việc gì mà lão lén nhìn ta, (sửng sốt) có lông dựng đứng? Ta làm cho lão thế này thế nọ để cho lão hứng thú ăn thịt ta.”
28. Ðừng đứng nhìn ta , dáng sửng sờ
Ta cầu ngươi giết bắt ăn ta
Khi đang còn sống ta trù tính
Muốn để ngươi ăn thịt đúng giờ.
2804. Ko tādisaṃ arahati khāditāye dhamme ṭhitaṃ saccavādiṃ vadaññuṃ, muddhāpi tassa viphaleyya sattadhā yo tādisaṃ saccavādiṃ adeyya.
2804. “Ai xứng đáng để ăn thịt người vững vàng về đạo đức, có lời nói chân thật, rộng lượng như thế ấy? Kẻ nào ăn thịt người có lời nói chân thật như thế ấy, thậm chí cái đầu của kẻ ấy cũng có thể vỡ tan thành bảy mảnh.”
29. Một hiền nhân, chánh trực, công bằng
Chắc chẳng bao giờ phải bị ăn
Hoặc kẻ nào ăn người, ắt hẳn
Ðầu kia tan nát bảy phần chăng.
2805. Idaṃ hi so brāhmaṇaṃ maññamāno
saso avāsesi sake sarīre, teneva so candimā devaputto
sasatthuto kāmaduhajja yakkha.
2805. “Trong khi nghĩ rằng: ‘Người này là Bà-la-môn,’ con thỏ ấy đã quyết định bố thí thân thể của mình; chính vì thế, vị Thiên tử Mặt Trăng ấy, được ngợi khen về (hình bóng) con thỏ, ngày nay là vị Dạ-xoa có nguồn ban phát các điều mong muốn.”
30. Ðế Thiên giả dạng một La-môn
Thỏ lấy thịt mình để cúng dâng
Từ đó mặt trăng in dáng thỏ
Ta chào nguyệt diện: “Dạ xoa thần!”
2806. Cando yathā rāhumukhā pamutto virocate paṇṇaraseva bhānumā, evaṃ tuvaṃ porisādā pamutto
viroca kampilla mahānubhāva, āmodayaṃ pitaraṃ mātarañca sabbo ca te nandatu ñātipakkho.
2806. “Giống như mặt trăng được thoát khỏi miệng của thần Rāhu (nguyệt thực) chiếu sáng vào ngày rằm, tựa như mặt trời, tương tự như vậy, này vị hoàng tử có đại năng lực, được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, ngài hãy chiếu sáng xứ sở Kampilla. Trong lúc làm cha và mẹ hoan hỷ, ngài hãy để cho toàn bộ nhóm thân quyến của ngài vui mừng.”
31. Như trăng thoát vuốt La thần
Chiếu giữa đêm rằm tỏa ánh quang
Ngài, chúa Kam-pi anh dũng đã
Thoát tay quỷ dữ, sáng huy hoàng
Bạn đang sầu, bỗng tung hô dậy
Trước mặt ngài xuất hiện vẻ vang
Phụ mẫu thân yêu , ngài cống hiến
Bao niềm hạnh phúc ngập hân hoan.
2807. Tato have dhitimā rājaputto katañjalī pariyagā porisādaṃ, anuññāto sotthi sukhī arogo paccāgamā kampillamalīnasatto.
2807. Thật vậy, sau đó, vị hoàng tử dũng cảm đã chắp tay lại, đi vòng quanh kẻ ăn thịt người. Được cho phép, hoàng tử Alīnasatta đã trở về lại thành Kampilla bình yên, hạnh phúc, khỏe mạnh.
32. A-lin thái tử anh hùng
Nghiêng mình kính lễ quỷ nhân hung tàn
Thêm lần thoát nạn lên đàng
Về Kam-pi xứ, an toàn tấm thân.
2808. Taṃ negamā jānapadā ca sabbe hatthārohā rathikā pattikā ca, namassamānā pañjalikā upāgamuṃ
namatthu te dukkarakārakosī ”ti.
2808. Tất cả các thị dân và dân chúng cỡi ngựa, đi xe, và đi bộ, đã đến gần vị hoàng tử ấy, chắp tay, bày tỏ sự tôn kính: ‘Kính lễ đến ngài. Ngài là người làm công việc khó khăn.’”
33. Từ thành thị đến thôn trang
Nhân dân lũ lượt lên đàng chen chân
Kìa! Ðồng nô nức hô vang
Uy danh thái tử can tràng hùng anh
Tượng, xa ngất nghểu đăng trình
Ðến ngài đảnh lễ, cung nghênh khải hoàn.
Jayaddissajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Vua Jayaddisa. [513]
***
▪ 4. CHADDANTAJĀTAKAṂ – BỔN SANH VOI CHÚA CHADDANTA
514. Chuyện tượng vương ở hồ Chaddanta (Tiền thân Chaddanta)
2809. Kinnu socasi anuccaṅgi paṇḍūsi varavaṇṇini,
milāyasi visālakkhi mālāva parimadditā.
2808. “Này cô nàng có cơ thể tựa như vàng, vì sao nàng sầu muộn? Này cô nàng có sắc đẹp cao quý, vì sao nàng có vẻ xanh xao? Này cô nàng có đôi mắt to, vì sao nàng bị héo hon, tựa như lẵng hoa bị vày vò?”
1. Ái hậu mắt nhung, đẹp tuyệt trần,
Nàng xanh xao quá, dáng đau buồn,
Như tràng hoa dưới chân giày xéo,
Vì cớ sao nàng héo úa dần?
2810. Dohaḷo me mahārāja supinantenupaccagā,
na so sulabharūpova yādiso mama dohaḷo.
2809. “Tâu đại vương, thiếp có sự khao khát. Nó đến trong giấc mơ. Sự khao khát như thế ấy của thiếp dường như có vẻ không dễ dàng đạt được.”
2. Dường như chuyện thấy ở trong mơ,
Thần thiếp hằng mong mỏi thiết tha,
Mộng ước hão huyền e khó đạt,
Cho nên lòng thiếp mãi buồn lo.
2811. Ye keci mānusā kāmā idha lokasmiṃ nandane,
sabbe te pacurā mayhaṃ ahante dammi dohaḷaṃ.
2810. “Bất kỳ những dục vọng nào thuộc về nhân loại ở thế gian này, tất cả các điều ấy đều dồi dào đối với trẫm. Trẫm sẽ ban cho nàng điều khao khát ấy.”
3. Những lạc thú nào ở thế gian,
Con người khao khát tận tâm can,
Ðiều gì mong trẫm đem ban tặng,
Hãy nói trẫm nghe, ước nguyện nàng.
2812. Luddā deva samāyantu ye keci vijite tava,
etesaṃ ahamakkhissaṃ yādiso mama dohaḷo.
2811. “Tâu bệ hạ, hãy cho tập hợp các thợ săn lại, bất kỳ những ai đang ở trong lãnh địa của bệ hạ. Thiếp sẽ nói cho những người ấy điều khao khát của thiếp là như thế nào.”
4. Truyền đám thợ săn phụng mệnh ngay,
Những người cư ngụ nước non này,
Ðiều thần thiếp muốn nhờ tay họ,
Khi diện kiến, xin sẽ giải bày.
2813. Ime te luddakā devi katahatthā visāradā,
vanaññū ca migaññū ca mamatthe cattajīvitā.
2813. “Này ái hậu, những người thợ săn này là thuộc về nàng. Họ đã khéo được rèn luyện, tự tin, hiểu biết về rừng và các loài thú, có mạng sống đã được buông bỏ cho mục đích của trẫm.”
5. Nhìn đám thợ săn dũng cảm đây!
Nghề săn mồi lão luyện cao tay,
Với tài chém giết bầy hoang thú,
Vì trẫm, sẵn sàng bỏ mạng ngay.
2814. Luddaputtā nisāmetha yāvantettha samāgatā,
chabbisāṇaṃ gajaṃ setaṃ addasaṃ supine ahaṃ,
tassa dantehi me attho alābhe natthi jīvitaṃ.
2814. “Hỡi các thợ săn trai trẻ đã đến tụ hội ở nơi này, các người hãy chú tâm lắng nghe. Bổn cung đã nhìn thấy con voi sáu ngà màu trắng ở trong giấc mơ. Bổn cung có nhu cầu với những cái ngà của nó; nếu không đạt được thì không sống nổi.”
6. Lạp hộ can trường tụ tập đây,
Những lời ta nói, lắng nghe vầy:
Dường như ta thấy trong cơn mộng
Bạch tượng sáu ngà tuyệt mỹ thay,
Ta ước bộ ngà, lòng khắc khoải,
Chẳng còn gì đáng giá đời này!
2815. Na no pitūnaṃ na pitāmahānaṃ diṭṭho suto kuñjaro chabbisāṇo, yamaddasā supine rājaputti
akkhāhi no yādiso hatthināgo.
2815. “Tâu lệnh bà, các người cha, các người ông của chúng tôi còn chưa được thấy, chưa được nghe về con voi có sáu ngà. Xin lệnh bà hãy nói rõ cho chúng tôi về con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ là như thế nào.
7. Các bậc tổ tiên thuở đã qua,
Sáu ngà voi trắng, thấy bao giờ?
Loài gì thú ấy, xin cho biết,
Ðã hiện trong mơ của lệnh bà.
2816. Disā catasso vidisā catasso uddhaṃ adho dasadisā imāyo, katamaṃ disaṃ tiṭṭhati nāgarājā
yamaddasā supine chabbisāṇaṃ.
2816. Bốn hướng chánh, bốn hướng phụ, hướng trên, hướng dưới, trong mười hướng này, con long tượng mà lệnh bà đã nhìn thấy trong giấc mơ đứng ở hướng nào?”
8. Bốn phương Nam, Bắc, với Tây, Ðông,
Chính giữa bốn miền cũng họp chung,
Thiên đỉnh thêm vào thiên đế nữa,
Nơi nào trong thập hướng không trung,
Tượng vương này ở, xin cho biết,
Xuất hiện trong mơ của chánh cung.
2817. Ito ujuṃ uttariyaṃ disāyaṃ atikkamma so satta girī brahante, suvaṇṇapasso nāma girī uḷāro
supupphito kimpurisānuciṇṇo.
2817. “Từ nơi này, thẳng lên hướng bắc, sau khi vượt qua bảy ngọn núi khổng lồ; (trong số đó) ngọn núi nổi bậc ấy có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng), được khéo nở rộ hoa, được lai vãng bởi loài nhân điểu.
9. Hướng Bắc bên kia dãy Thất San,
Cuối cùng ta đến Vách non Vàng,
Ðỉnh cao thường có loài ma quỷ,
Hoa tự chân lên ngọn rỡ ràng.
2818. Āruyha selaṃ bhavanaṃ kinnarānaṃ
olokaya pabbatapādamūlaṃ, atha dakkhasī meghasamānavaṇṇaṃ nigrodharājaṃ aṭṭhasahassapādaṃ.
2818. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, ngươi hãy nhìn xuống khu vực ở chân núi, và ngươi sẽ nhìn thấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.
10. Dưới núi ma kia lại thấy ngay
Xanh um cả khối, dáng như mây,
Một cây đa chúa, từ nhiều gốc
Sinh tám ngàn cành, tráng kiện thay.
2819. Tatthacchati kuñjaro chabbisāṇo sabbaseto duppasaho parehi, rakkhanti naṃ aṭṭhasahassanāgā
īsādantā vātajavappahārino.
2819. Con voi sáu ngà trú ẩn tại nơi ấy. Nó có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.
11. Trú đây, Bạch tượng mạnh vô song
Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
2820. Tiṭṭhanti te tumulaṃ passasantā kuppanti vātassapi eritassa, manussabhūtaṃ pana tattha disvā
bhasmaṃ kareyyuṃ nāssa rajopi tassa.
2820. Chúng đứng, thở ra một cách ồn ào. Chúng giận dữ, thậm chí đối với làn gió bị xao động. Hơn nữa, sau khi nhìn thấy bóng dáng con người ở nơi ấy, chúng có thể làm thành tro, thậm chí hạt bụi của con người cũng không được.”
12. Thở phì, Voi đứng, mắt trừng trừng,
Hơi gió nhẹ đưa cũng nổi sân,
Nếu chợt thấy người gây mảy gió,
Ðùng đùng, chúng dẫm nát tan thân!
2821. Bahū hi me rājakulamhi santi piḷandhanā jātarūpassa devi, muttā maṇīveḷuriyāmayā ca kiṃ kāhasi dantapiḷandhanena, māretukāmā kuñjaraṃ chabbisāṇaṃ udāhu ghātessasi luddaputte.
2821. “Tâu lệnh bà, có quá nhiều các thứ này ở hoàng gia, các đồ trang sức thuộc về vàng, các ngọc trai, các ngọc ma-ni, và các vật làm bằng ngọc bích. Với ước muốn giết chết con voi sáu ngà, lệnh bà sẽ làm gì với đồ trang sức bằng ngà voi? Hay là lệnh bà sẽ giết hại các thợ săn trai trẻ?”
13. Lam ngọc sáng ngời hoặc bảo trân,
Biết bao trang sức với kim ngân,
Việc gì hoàng hậu cần ngà ấy,
Hay lệnh bà mong giết thợ săn?
2822. Sā issitā dukkhitā casmi ludda uddhañca sussāmi anussarantī, karohi me luddaka etamatthaṃ dassāmi te gāmavarāni pañca.
2822. “Này thợ săn, bổn cung đây bị ganh ghét, khổ đau. Và ta bị héo hon trong khi nhớ về quá khứ. Này thợ săn, ngươi hãy làm việc ấy cho bổn cung. Bổn cung sẽ ban cho ngươi ân huệ là năm ngôi làng.”
14. Nung nấu lòng ta rẫy giận hờn,
Mỗi lần nhớ lại vết đau thương,
Cho ta, lạp hộ, điều ta ước,
Làng đẹp năm ngôi, sẽ hưởng ơn!
2823. Katthacchati katthamupeti ṭhānaṃ vīthissa kā nahānagatassa hoti, kathañhi so nahāyati nāgarājā
kathaṃ vijānemu gatiṃ gajassa.
2823. “Nó trú ở đâu? Nó đi đến chỗ đứng ở đâu? Lối đi nào của nó khi đi tắm? Con voi chúa ấy tắm như thế nào? Làm thế nào chúng thần có thể biết được đường lối đi lại của con voi?”
15. Voi ở đâu? Tìm kiếm chốn nào?
Ðường Voi đi tắm, hướng ra sao?
Nơi nào Vương tượng thường bơi lội?
Xin chỉ con đường để bắt mau.
2824. Tattheva sā pokkharaṇī adūre rammā sutitthā ca mahodikā ca, sampupphitā bhamaragaṇānuciṇṇā
ettha hi so nahāyati nāgarājā.
2824. “Ngay tại nơi đó, hồ sen (Chaddanta) ấy ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.
16. Không xa nơi tắm ấy là bao,
Thăm thẳm hồ sâu diễm lệ sao,
Hoa rộ nở, đầy ong bướm lượn,
Ðấy nơi Vương tượng dễ tìm cầu.
2825. Sīsaṃ nahāto uppalamāladhārī sabbaseto puṇḍarīkattacaṅgī, āmodamāno gacchati santike taṃ
purakkhatvā mahesiṃ sabbabhaddaṃ.
2825. Khi đã tắm xong cái đầu, con voi đội lên vòng hoa sen xanh, toàn thân có màu trắng, với các phần thân thể và làn da tựa như hoa sen trắng. Trong lúc vui thích, con voi đi về nơi trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.
17. Tắm mát, cài sen, chiếc miện hoa,
Hân hoan Voi rảo bước về nhà,
Như cành sen trắng cao vòi vọi,
Theo gót bà hoàng yêu thiết tha!
2826. Tattheva so uggahetvāna vākyaṃ ādāya tūṇiñca dhanuñca luddo, vituriya so satta girī brahante
suvaṇṇapassaṃ nāma giriṃ uḷāraṃ.
2826. Ngay tại nơi ấy, sau khi đã nắm vững lời dặn, gã thợ săn ấy đã cầm lấy túi tên và cây cung. Gã ấy đã vượt qua bảy ngọn núi lớn khổng lồ, (trong số đó) ngọn núi nổi bậc có tên là Suvaṇṇapassa (Sườn Núi Vàng).
18. Thợ săn nghe lệnh, vững can tràng,
Nai nịt cung tên, tiến bước đàng,
Băng vượt bảy tầng non bát ngát,
Cuối cùng đến thượng đỉnh Kim San.
2827. Āruyhaselaṃ bhavanaṃ kinnarānaṃ olokayī pabbatapādamūlaṃ, tatthaddasā meghasamānavaṇṇaṃ nigrodharājaṃ aṭṭhasahassapādaṃ.
2827. Sau khi trèo lên tảng núi đá là chỗ ngụ của các nhân điểu, gã đã nhìn xuống khu vực ở chân núi, và đã nhìn thấy tại nơi ấy một cây đa chúa, với gốc có tám ngàn cành, có hình dáng giống như đám mây.
19. Ðến núi cao đầy quỷ ẩn thân,
Khối gì trước mắt, dáng như vân?
Chính cây đa chúa, thân to lớn
Ðỡ tám ngàn cành tán trải giăng.
2828. Tatthaddasā kuñjaraṃ chabbisāṇaṃ sabbasetaṃ duppasahaṃ parehi, rakkhanti taṃ aṭṭhasahassanāgā
īsādantā vātajavappahārino.
2828. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy con voi sáu ngà có toàn thân màu trắng, khó bị khuất phục bởi những con voi khác. Tám ngàn con voi bảo vệ nó. Chúng có ngà như cán cày, có cú đánh với tốc độ của gió.
20. Trú đây Bạch tượng mạnh vô song
Có sáu ngà, quân đội tám ngàn,
Ngà tựa càng xe, tài thiện chiến,
Hộ phòng, giao đấu, tốc như phong!
2829. Tatthaddasā pokkharaṇiṃ adūre rammaṃ sutitthañca mahodikañca, sampupphitaṃ bhamaragaṇānuciṇṇaṃ yattha hi so nahāyati nāgarājā.
2829. Gã đã nhìn thấy tại nơi ấy hồ sen (Chaddanta) ở không xa, đáng yêu, có bến tắm xinh đẹp, và có nhiều nước, được nở rộ nhiều hoa, được lai vãng bởi các bầy ong. Chính nơi này, con voi chúa ấy tắm.
21. Gần đó, hồ kia nước tận bờ,
Xứng nơi vương tượng lội bơi qua,
Ðôi bờ khả ái muôn hoa đẹp,
Ong lượn quanh đầy tiếng nhỏ to.
2830. Disvāna nāgassa gatiṃ ṭhitiñca vīthissa yā nahānagatassa hoti, opātamāgañchi anariyarūpo
payojito cittavasānugāya.
2830. Sau khi nhìn thấy đường lối đi lại và chỗ đứng của con voi, gã thợ săn, với bộ dạng không thánh thiện, bị gắn bó theo mãnh lực tâm (của hoàng hậu), đã thực hiện một cạm bẫy ở lối đi của con voi khi nó đi tắm.
22. Ðánh dấu đường đi của Tượng vương
Những khi bơi lội, chí kiên cường
Gã đào hố, việc làm hèn hạ
Xúi giục cho vương hậu giận hờn!
2831. Khaṇitvāna kāsuṃ phalakehi chādayi attānamodhāya dhanuñca luddo, passāgataṃ puthusallena nāgaṃ samappayī dukkaṭa kammakārī.
2831. Sau khi đào một cái hố và che đậy bằng các tấm ván, gã thợ săn đã ẩn mình và cây cung (ở trong cái hố), rồi đã xuyên thủng con voi ở bên hông bằng mũi tên lớn; gã là kẻ đã tạo nghiệp ác hạnh.
23. Che hố trước tiên đậy ván dày,
Bước vào, cung nắm ở trong tay,
Vừa khi Bạch tượng đi qua đó,
Kẻ ác cho tên dữ vút bay.
2832. Viddho ca nāgo koñcamanādi ghoraṃ sabbeva nāgā ninnaduṃ ghorarūpaṃ, tiṇañca kaṭṭhañca cuṇṇaṃ karontā dhāviṃsu te aṭṭha disā samantato.
2832. Và con voi bị xuyên thủng đã kêu tiếng rống ghê rợn. Toàn bộ tất cả các con voi đã rống đáp lại với hình thức ghê rợn. Chúng đã chạy theo tám hướng ở xung quanh, làm cho lá cỏ và cây cối bị nát vụn.
24. Voi bị thương gầm rống thảm thương,
Cả đoàn đáp lại cũng gầm vang,
Ngàn cây nghiêng ngã giày tan cỏ,
Tán loạn đàn voi chạy thẳng đường.
2833. Vadhissametanti parāmasanto kāsāvamaddakkhi dhajaṃ isīnaṃ, dukkhena puṭṭhassudapādi saññā
arahaddhajo sabbhi avajjharūpo.
2833. (Nghĩ rằng): ‘Ta sẽ giết chết kẻ này,’ trong lúc chạm vào (gã thợ săn), con voi đã nhìn thấy tấm vải màu ca-sa, biểu hiệu của các ẩn sĩ. Sự nhận biết đã sanh khởi đến con voi bị xúc chạm bởi khổ đau rằng: ‘Biểu hiệu của các bậc A-la-hán, theo các bậc sáng suốt, là không được xâm phạm.’
25. Voi chúa đã gần giết địch nhân
Vì chứng đau đớn hóa điên cuồng,
Nhưng kìa! Ðôi mắt ngài vừa gặp
Biểu tượng thanh cao, chiếc áo vàng,
Bộ áo tu hành bất khả phạm,
Ấy điều suy nghĩ của hiền nhân.
2834. Anikkasāvo kāsāvaṃ yo vatthaṃ paridahessati,
apeto damasaccena na so kāsāvamarahati.
2834. Kẻ nào có uế trược chưa lìa, sẽ khoác lên tấm vải ca-sa, (mà) bỏ bê việc rèn luyện và sự chân thật, kẻ ấy không xứng với y ca-sa.
26. Người nào vấy phải tội đầy thân,
Chẳng chế ngự mình, thiếu thật chân,
Dù chiếc hoàng y, mình nó mặc,
Chẳng hòng mong đạt tịnh thanh tâm.
2835. Yo ca vantakasāvassa sīlesu susamāhito,
upeto damasaccena sa ve kāsāvamarahati.
2835. Còn vị nào có uế trược đã được tẩy trừ, khéo định tĩnh trong các giới, gắn bó với việc rèn luyện và chân thật, người ấy quả nhiên xứng với y ca-sa.
27. Còn kẻ thoát ra mọi lỗi lầm
Ðầy lòng chân thật, tự điều tâm,
Vững lòng cương quyết theo công chánh,
Xứng đáng y vàng khoác tấm thân.
2836. Samappito puthusallena nāgo aduṭṭhacitto luddakaṃ ajjhabhāsi, kimatthayaṃ kissa vā samma hetu mamaṃ vadhī kassa vāyaṃ payogo.
2836. Bị mũi tên lớn đâm vào, con voi, với tâm không sân hận, đã nói với gã thợ săn rằng: “Này bạn, bạn đang ước nguyện điều gì? Cái chết của ta là vì nguyên nhân gì? Kế hoạch này là của ai?”
28. Voi trúng tên tàn bạo quỵ chân,
Trong lòng bình thản, hỏi cừu nhân:
“Ðích gì khi giết nhằm ta thế,
Cho biết ai xúi giục, bạn thân?”
2837. Kāsissa rañño mahesī bhadante sā pūjitā rājakule subhaddā, taṃ addasā sā ca mamaṃ asaṃsi dantehi atthoti ca maṃ avoca.
2837. “Thưa ngài, chánh hậu của đức vua xứ Kāsi, nàng Subhaddā ấy được tôn vinh ở gia đình hoàng tộc. Bà ấy đã nhìn thấy ngài và đã giải thích cho tôi, rồi đã nói với tôi rằng: ‘Có nhu cầu với những cái ngà.’”
29. Ái hậu Kà-si bậc đại quân,
Su-bhad-dà, bảo đã từng trông
Dáng ngài trong mộng, và vì thế:
“Ta muốn ngà kia, hãy kiếm dâng!”.
2838. Bahū hi me dantayugā uḷārā ye me pitūnañca pitāmahānaṃ, jānāti sā kodhanā rājaputtī vadhatthikā veramakāsi bālā.
2838. “Các cặp ngà cao quý này của các cha ông của ta là rất nhiều. Bà hoàng hậu ấy biết, nhưng vì sân hận, ngu dốt, có ý định giết hại, nên đã gây ra việc thù hằn.
30. Kho báu ta mang ở bộ ngà,
Hình hài di tích của ông cha,
Ðiều này ác phụ am tường quá,
Nên kẻ khốn nhằm đoạt mạng ta.
2839. Uṭṭhehi tvaṃ ludda kharaṃ gahetvā dante ime chinda purā marāmi, vajjāsi taṃ kodhanaṃ rājaputtiṃ
nāgo hato handa imassa dantā.
2839. Này thợ săn, ngươi hãy đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và hãy cắt những cái ngà này trước khi ta chết. Ngươi có thể nói với hoàng hậu về sự sân hận ấy rằng: ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’”
31. Trước khi ta chết, thợ săn ôi,
Cưa lấy bộ ngà của chúa Voi,
Bảo ác phụ kia mừng mãn nguyện,
“Ðây ngà, Bạch tượng đã lìa đời!”
2840. Uṭṭhāya so luddo kharaṃ gahetvā chetvāna dantāni gajuttamassa, vaggū subhe appaṭime pathabyā
ādāya pakkāmi tato hi khippaṃ.
2840. Gã thợ săn ấy đã đứng lên, rồi cầm lấy cái cưa, và cắt những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, sau đó, cầm lấy chúng rồi vội vã rời khỏi nơi ấy.
32. Rồi thợ săn cưa lấy bộ ngà
Từ hàm Bạch tượng tối cao ra,
Sáng ngời, bảo vật vô song ấy,
Gã bước nhanh chân trở lại nhà.
2841. Bhayadditā nāgavadhena aṭṭā ye te nāgā aṭṭha disā vidhāvuṃ, adisva posaṃ gajapaccamittaṃ
paccāgamuṃ yena so nāgarājā.
2841. Bị hốt hoảng bởi nỗi sợ hãi, bị khổ đau bởi cái chết của con voi chúa, các con voi ấy đã chạy tản mác tám phương. Sau khi không nhìn thấy con người thù địch của loài voi, chúng quay trở lại nơi con voi chúa ấy.
33. Kinh hãi nhìn Vương tượng bỏ thân,
Ðàn voi vùng tán loạn, hoang mang,
Chẳng tìm thấy vết cừu nhân ác,
Trở lại nhìn vua ngã xuống đàng.
2842. Te tattha kanditvā roditva nāgā sīse sake paṃsukaṃ okiritvā, agamaṃsu te sabbe sakaṃ niketaṃ purakkhatvā mahesiṃ sabbabhaddaṃ.
2842. Các con voi ấy than van, khóc lóc tại nơi ấy. Sau khi rắc bụi tro xuống ở trên đầu của mình, tất cả các con voi ấy đã đi về chỗ trú ngụ của mình, dẫn đầu là voi chánh hậu Sabbabhaddā.
34. Ðàn voi khóc lóc lẫn kêu gào,
Tất cả chất tro đội đỉnh đầu,
Chầm chậm trở về nơi cư trú,
Theo sau hoàng hậu mãi thanh cao.
2843. Ādāya dantāni gajuttamassa vaggū subhe appaṭime pathabyā, suvaṇṇarājīhi samantamodare
so luddako kāsipuraṃ upāgami, upānesi so rājakaññāya dante nāgo hato handa imassa dantā.
2843. Sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng; chúng chiếu sáng ở xung quanh với những tia sáng màu hoàng kim. Gã thợ săn ấy đã đi đến thành Kāsi. Gã ấy đã dâng các cái ngà đến vị hoàng hậu (tâu rằng): ‘Con voi đã chết. Còn đây là những cái ngà của nó.’
35. Thẳng đến Kà-si, gã thợ săn,
Vô song tặng vật, gã vừa mang:
Bộ ngà của chúa Voi ngời chiếu
Làm mọi tâm hoan với ánh vàng;
2844. Disvāna dantāni gajuttamassa bhattuppiyassa purimāya jātiyā, tattheva tassā hadayaṃ aphāli
teneva sā kālamakāsi bālā.
2844. Sau khi nhìn thấy những cái ngà của con voi tối thượng, của người chồng yêu quý trong kiếp sống trước. Ngay tại nơi ấy, trái tim của nàng ấy đã vỡ tan. Chính vì điều ấy, người đàn bà ngu si ấy đã từ trần.
36. Bà hoàng vừa chợt thấy đôi ngà,
Chúa thượng dấu yêu thuở đã qua,
Lòng quá đau thương liền vỡ nát,
Vì ngài, kẻ ngốc hóa ra ma.2845. Sambodhipatto ca mahānubhāvo sitaṃ akāsi parisāya majjhe, pucchiṃsu bhikkhū suvimuttacittā
nākāraṇe pātukaronti buddhā.
2845. Và bậc đã đạt đến quả vị Toàn Giác, có đại thần lực, đã nở nụ cười ở giữa hội chúng. Các vị tỳ khưu có tâm khéo được giải thoát đã thắc mắc rằng: “Chư Phật biểu lộ (nụ cười) không phải không có nguyên nhân.”
37. Khi Ðại trí nhân đủ lực thần,
Mỉm cười trước mắt các hiền Tăng,
Tức thì Thánh chúng liền suy nghĩ:
“Chư Phật chẳng cười chuyện bỗng dưng!”.
2846. Yamaddasātha dahariṃ kumāriṃ kāsāva vatthaṃ anagāriyaṃ carantiṃ, sā kho tadā rājakaññā ahosi
ahaṃ tadā nāgarājā ahosiṃ.
2846. “Người thiếu nữ trẻ tuổi khoác tấm vải màu ca-sa đang sống không nhà mà các ngươi nhìn thấy, vào lúc bấy giờ, nàng ấy đã là công chúa (sau trở thành chánh hậu), còn Ta khi ấy đã là con voi chúa.
38. Ngài bảo: “Các ông thấy nữ nhi
Làm Sa-di ấy, khoác hoàng y,
Xưa là hoàng hậu, và Ta nữa,
Ngài tiếp, “là Voi chúa mất đi”.
2847. Ādāya dantāni gajuttamassa vaggū subhe appaṭime pathabyā, yo luddako kāsipuraṃ upāgami
so kho tadā devadatto ahosi.
2847. Gã thợ săn, sau khi cầm lấy những cái ngà xinh xắn, đẹp đẽ, không gì sánh bằng ở trái đất của con voi tối thượng, rồi đã đi đến thành Kāsi, lúc bấy giờ, Devadatta đã là gã ấy.”
39. Kẻ ác cưa ngà báu trắng tinh,
Vô song dưới thế, ánh quang minh,
Ðem về thành phố Ba-la-nại
Nay chính Ðề-bà-đạt đích danh”.
2848. Anāvasūraṃ cirarattasaṃsitaṃ uccāvacaṃ caritamidaṃ purāṇaṃ, vītaddaro vītasoko visallo
sayaṃ abhiññāya abhāsi buddho.
2848. Là bậc đã xa lìa sự lo lắng, bậc đã xa lìa sự sầu muộn, bậc không còn mũi tên, đức Phật, sau khi tự mình biết rõ, đã nói về hạnh kiểm cao thượng và thấp hèn này trong thời quá khứ đã được trải qua thời gian dài lâu, nhưng còn chưa phai nhạt.
40. Phật-đà với trí tuệ riêng Ngài
Kể lại chuyện xưa ấy thật dài,
Đủ mọi nỗi buồn đau thống thiết,
Dù Ngài đã thoát hết bi ai.
2849. Ahaṃ vo tena kālena ahosiṃ tattha bhikkhavo,
nāgarājā tadā hosiṃ evaṃ dhāretha jātakanti.
2849. Này các tỳ khưu, vào lúc ấy, Ta đã ở nơi ấy (hồ nước Chaddanta). Khi ấy, Ta đã là con voi chúa. Các ngươi hãy ghi nhớ chuyện Bổn Sanh như thế ấy.
41. “Ngày xưa Bạch tượng chính Ta đây,
Làm chúa Voi đông đảo cả bầy,
Như vậy, chư Tăng, ta muốn bảo
Các ông hiểu rõ Tiền thân này”.
Chaddantajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Voi Chúa Chaddanta. [514]
***
▪ 5. SAMBHAVAJĀTAKAṂ – BỔN SANH BẬC TRÍ SAMBHAVA
515. Chuyện nam tử Sambhava (Tiền thân Sambhava)
2850. Rajjañca paṭipannasmā ādhipaccaṃ sucīrata,
mahattaṃ pattumicchāmi vijetuṃ paṭhaviṃ imaṃ.
2850. “Này khanh Sucīrata, chúng ta đã đạt được vương quốc và quyền thống trị. Trẫm muốn đạt đến bản thể vĩ đại để cai quản trái đất này–
1. Trẫm chẳng màng ngôi vị đế vương,
Su-cì, và thống trị giang sơn,
Vì mong trẫm đạt thành cao cả,
Ngự trị khắp toàn cõi thế gian.
2851. Dhammena no adhammena adhammo me na ruccati, kiccova dhammo carito rañño hoti sucīrata.
2851. –bằng công lý không phải bằng phi công lý; phi công lý không hứng thú đối với trẫm. Này Sucīrata, công lý được thực hành chính là việc cần phải làm của vị vua.
2. Bằng Chánh chân thôi, tránh lỗi lầm,
Bởi vì tất cả đấng quân vương,
Ở trên trần thế cần theo đúng
Bất cứ điều Chân chánh Thiện lương.
2852. Idha cevāninditā yena pecca yena aninditā,
yasaṃ devamanussesu yena pappemu brāhmaṇa.
2852. Và nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời này; nhờ thế, chúng ta không bị chê bai ở đời sau; này Bà-la-môn, nhờ thế, chúng ta có thể đạt được danh tiếng ở chư Thiên và nhân loại.
3. Do đó ta xa lánh lỗi lầm
Ðời này và mãi mãi ngàn năm
Ta cầu mong được danh vinh hiển
Ở giữa chư Thiên lẫn thế nhân.
2853. Yohaṃ atthañca dhammañca kattumicchāmi brāhmaṇa, taṃ tvaṃ atthañca dhammañca brāhmaṇakkhāhi pucchito.
2853. Này Bà-la-môn, trẫm đây mong muốn thực hiện phúc lợi và công lý. Này Bà-la-môn, được hỏi, khanh hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”
4. Này hỡi tế sư, hãy biết rằng
Những gì Chân thiện, trẫm mong làm,
Vậy khi được hỏi, xin cho biết
Những việc làm nào đúng Thiện Chân.
2854. Nāññatra vidhurā rāja etadakkhātum arahati,
yaṃ tvaṃ atthañca dhammañca kattumicchasi khattiya.
2854. “Tâu bệ hạ, về việc bệ hạ mong muốn tạo ra phúc lợi và công lý, tâu vị Sát-đế-lỵ, không có ai ngoại trừ Vidhura có khả năng nói về điều ấy.”
5. Khải tấu Ðại vương, chẳng có ai
Ngoài Vi-dhu ấy đủ thiên tài,
Nói điều kỳ diệu là Chân thiện,
Chúa thượng hằng mong thực hiện hoài.
2855. Ehi kho pahito gaccha vidhurassa upantikaṃ,
nikkhaṃ ratta suvaṇṇassa haraṃ gaccha sucīrata,
abhihāraṃ imaṃ dajjā atthadhammānusiṭṭhiyā.
2855. “Này Sucīrata, được ủy nhiệm, khanh hãy đi đến khu vực của Vidhura. Khanh hãy đi mang theo tấm lắc vàng ròng. Khanh nên trao quà biếu này vì lời giáo huấn về phúc lợi và công lý.
6. Hiền hữu, đi ngay lấy phiến vàng
Ðến Vi-dhu ấy, trẫm nhờ mang
Tặng phần xứng trí nhân ưu tú
Dạy trẫm điều Chân thiện tỏ tường.
2856. Svādhippāgā bhāradvājo vidhurassa upantikaṃ,
tamaddasa mahābrāhmā asamānaṃ sake ghare.
2856. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Vidhura và đã nhìn thấy vị ấy đang thọ thực ở nhà của mình.
7. Bhà-rad vội vã tiến lên đàng
Ðến gặp Vi-dhu, thấy bạn vàng
Ngồi tại nhà riêng, sắp sửa dự
Bữa cơm thanh đạm sáng tinh sương.
2857. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca vidhurakkhāhi pucchito.
2857. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Vidhura, được hỏi, ông hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”
8. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
Hiền hữu, Vi-dhu, cho đệ biết
Thiện lương, Chân chánh phải là đâu.
2858. Gaṅgaṃ me pidahissanti na taṃ sakkomi brāhmaṇa, apidhetuṃ mahāsindhuṃ taṃ kathaṃ so bhavissati, na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito.
2858. “Thưa vị Bà-la-môn, nhiều công việc ngăn cản tôi. Tôi không thể ngăn chặn con sông lớn Sindhu được, làm thế nào sẽ có cơ hội cho việc ấy? Dầu được hỏi, tôi không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.
9. Tràn ngập chủ đề quá lớn lao
Như sông Hằng nước lụt tuôn trào,
Ta không thể nói đâu là lẽ
Chân Thiện, hiền huynh đến thỉnh cầu.
2859. Bhadrakāro ca me putto oraso mama atrajo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa.
2859. Này vị Bà-la-môn, Bhadrakāra là con trai của tôi, là đứa con trai ruột được tôi nuôi lớn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”
10. Hiện giờ đệ có một con trai
Tên gọi Bhà-dra ở giữa đời,
Tìm đến chàng ngay, chàng sẽ nói
Thiện lương, Chân lý rõ cho ngài.
2860. Svādhippāgā bhāradvājo bhadrakārassa santikaṃ, tamaddasa mahābrahmā nisinnaṃ samhi vesmani.
2860. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Bhadrakāra, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.
11. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
Ðến Bha-dra gấp tại gia đường,
Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
An tọa thong dong được thấy chàng.
2861. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca bhadrakāra bravīhi me.
2861. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Bhadrakāra, con hãy giải thích cho ta về phúc lợi và công lý ấy.”
12. Ðến vì thánh chỉ Câu-lâu
Dòng họ Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
Hiền điệt Bhà-dra, cho chú biết
Thiện lương, Chân lý phải là đâu.
2862. Maṃsakājaṃ avahāya godhaṃ anupatāmahaṃ,
na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito.
2862. “Sau khi bỏ xuống một gánh thịt, con lại đeo đuổi con kỳ đà.[1]Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.
[1] Theo lời giải thích của Chú Giải, Bhadrakāra bỏ bê vợ nhà và đeo đuổi người phụ nữ thuộc quyền bảo hộ của người khác (JaA. v, 61).
13. Cháu bỏ thịt nai thật ngọt ngon,
Và đang theo đuổi tắc kè con,
Làm sao có thể nào thông hiểu
Ðâu lẽ Thiện lương với Thật chơn?
2863. Sañjayo nāma me bhātā kaṇiṭṭho me sucīrata,
taṃ tvaṃ athañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa.
2863. Thưa ông Sucīrata, Sañjaya là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”
14. Song có em trai, ngài phải biết,
San-ja tên gọi, hãy lên đường
Kiếm chàng cho được, chàng tuyên thuyết
Chân Thiện ngài nghe thật tỏ tường.
2864. Svādhippāgā bhāradvājo sañjayassa upantikaṃ,
tamaddasa mahābrahmā nisinnaṃ samhi vesmani.
2864. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sañjaya, và đã nhìn thấy vị ấy đang ngồi ở chỗ cư ngụ của mình.
15. Lúc ấy Bhà-rad phải vội vàng
Ðến San-jay gấp tại gia đường
Giữa bao bằng hữu đang tề tựu,
An tọa thong dong được thấy chàng.
2865. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca sañjayakkhāhi pucchito.
2865. “Ta là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sañjaya, được hỏi, con hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”
16. Ðến vì thánh chỉ chúa Câu-lâu,
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu
Hiền điệt San-jay, cho chú biết
Thiện lương, Chân lý phải là đâu.
2866. Sadā maṃ gilatī maccu sāyaṃ pāto sucīrata,
na te sakkomi akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchito.
2866. “Thưa ông Sucīrata, cái chết luôn luôn nuốt lấy con vào buổi tối và buổi sáng. Dầu được hỏi, con không thể nói cho ông về phúc lợi và công lý.
17. Tử thần há miệng rộng đầy chông
Sáng tối chờ con, hỡi thúc ông
Làm thế nào con thưa với chú
Ðâu là Chân lý với Hiền lương?
2867. Sambhavo nāma me bhātā kaṇiṭṭho me sucīrata,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca gantvā pucchassu brāhmaṇa.
2867. Thưa ông Sucīrata, Sambhava là người em trai của con. Thưa vị Bà-la-môn, ông hãy đi đến và hỏi nó về phúc lợi và công lý ấy.”
18. Song có em thơ, chú biết chăng,
Sam-bha tên gọi, hãy lên đường,
Tìm em, thưa chú, em nêu rõ
Chân lý, Thiện lương thật tỏ tường!
2868. Abbhuto vata bho dhammo nāyaṃ asmāka ruccati, tayo janā pitāputtā tesu paññāya no vidū.
2868. “Con ơi, câu hỏi quả thật là phi thường! Điều này không làm cho chúng ta ưa thích. Ba người gồm có người cha và hai người con trai, họ không hiểu được bằng trí tuệ.
19 – 20. Việc lạ lùng này phật ý ta,
Chẳng hai con lớn, chẳng ông cha,
Biết phương giải đáp điều mầu nhiệmVậy nếu như chàng cũng chịu thua,
Thì phải chăng đây là cậu bé
Biết gì về lý Thiện Chân ư!
2869. Na naṃ sakkotha akkhātuṃ atthaṃ dhammañca pucchitā, kathaṃ nu daharo jaññā atthaṃ dhammaññca pucchito.
2869. Dầu được hỏi, họ không thể nói về phúc lợi và công lý ấy. Vậy làm thế nào đứa trẻ con có thể biết về phúc lợi và công lý, khi được hỏi?”
2870. Mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2870. “Xin ngài chớ xem thường em, (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
21. Xin ngài đi hỏi Sam-bha,
Xin ngài chớ vội khinh là trẻ thơ,
Em đầy thông thái tài ba
Nói ngay ngài biết đâu là Thiện Chân.
2871. Yathāpi cando vimalo gacchaṃ ākāsadhātuyā,
sabbe tārāgaṇe loke ābhāya atirocati.
2871. Cũng giống như mặt trăng (tròn), trong ngần, đang di chuyển ở hư không giới, nó vượt trội tất cả các quần thể tinh tú ở thế gian về ánh sáng.
22. Khác nào ánh nguyệt trong ngần
Sáng bừng vượt hẳn sao giăng đầy trời,
Ánh sao le lói mờ soi
Chim dần trong ánh rạng ngời Hằng nga,
2872. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2872. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
23. Cũng như chú bé Sam-bha
Trí tài kiệt xuất vượt xa tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, biết tỏ tường,
Xin ngài chớ vội khinh thường tuổi thơ.
2873. Yathāpi rammako māso gimhānaṃ hoti brāhmaṇa, atevaññehi māsehi dumapupphehi sobhati.
2873. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như tháng Rammaka thuộc mùa nắng là vượt trội các tháng khác; nó rực rỡ với những bông hoa của các loại cây.
24. Em đầy thông thái tài ba
Nói rành Chân Thiện đâu là lẽ ngay.
Tháng tư quyến rủ đắm say,
Vượt xa tất cả tháng ngày trong năm.
25. Hoa xuân đâm lộc nảy mầm,
Màu xanh bát ngát bao trùm rừng cây,
2874. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2874. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
Bé Sam-bha cũng thế này,
Vượt xa tuổi trẻ, trí tài tuyệt luân.
2875. Yathāpi himavā brahme pabbato gandhamādano,
nānārukkhehi sañchanno mahābhūtagaṇālayo,
osadhehi ca dibbebhi disā bhāti pavāti ca.
2875. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như ngọn núi tuyết Gandhamādana được bao phủ bởi nhiều loại cây khác nhau, là nơi trú ngụ của tập thể chư Thiên. Với các loại thảo dược của cõi Trời, nó chói sáng và tỏa hương đi khắp các phương.
26. Như trên đỉnh tuyết Hương Sơn
Rừng cây bao phủ, có thần điểm trang
Tỏa ra ánh sáng huy hoàng,
Mùi hương ngào ngạt dần lan toàn miền,
27. Dành cho vô số thần tiên
Tìm nơi ẩn náu bình yên chốn này.
2876. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoni uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2876. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
Bé Sam-bha cũng như vầy,
Vượt xa tuổi trẻ, trí đầy khôn ngoan.
2877. Yathāpi pāvako brahme accimālī yasassimā,
jalamāno vane gacche analo kaṇhavattanī.
2877. Thưa vị Bà-la-môn, cũng giống như trận hỏa hoạn với nhiều ngọn lửa, có sức nóng, trong lúc đốt cháy, nó di chuyển ở khu rừng, không hề thỏa mãn, tạo thành vệt dài đen thui (nơi nào nó đi qua).
28. Khác nào ngọn lửa huy hoàng
Cháy tràn lan khắp đồng hoang tung hoành,
Với cây cột lửa cuộn nhanh,
Không hề biết thỏa, tan tành cỏ non.
29. Ðể trơ một lối đen ngòm,
Bất kỳ nơi chốn lửa bùng lướt qua.Cũng vầy chú bé Sam-bha,
Trí tài kiệt xuất vượt đà ấu niên,
2878. Ghatāsano dhūmaketu uttamāhevanaṃ daho,
nisīthe pabbataggasmiṃ pahūtedho virocati.
2878. Ngọn lửa tế thần (cháy bằng bơ lỏng), có cột khói là biểu hiệu, đốt cháy khu rừng loại tốt nhất. Với nhiều nhiên liệu, nó rực sáng trong đêm tối ở trên đỉnh ngọn núi.
30. Khác nào một ngọn lửa thiêng
Ðốt bằng bỏ sống trong đêm tối trời,
Gặp cây gỗ quý nhất đời,
Giục cơn thèm cháy sáng ngời cao xa.
2879. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2879. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
31. Cũng vầy chú bé Sam-bha
Thông minh trí tuệ vượt xa tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
Em thông hiểu, nói tận tường Thiện Chơn
2880. Javena bhadraṃ jānanti balivaddañca vāhiye,
dohena dhenuṃ jānanti bhāsamānañca paṇḍitaṃ.
2880. Người ta biết được ngựa tốt bởi tốc độ, và con bò đực trong việc kéo nặng. Người ta biết được bò sữa do việc vắt sữa, và bậc sáng suốt trong khi vị ấy nói.
32. Trâu nhờ sức lực tráng cường
Ngựa nhờ tốc độ phô trương giống nòi,
Bò nhờ vắt sữa tuôn vòi,
Hiền nhân, ta biết nhờ lời khôn ngoan.
2881. Evampi daharūpeto paññāyogena sambhavo,
mā naṃ daharoti uññāsi apucchitvāna sambhavaṃ,
pucchitvā sambhavaṃ jaññā atthaṃ dhammañca brāhmaṇa.
2881. Cũng tương tự như vậy, Sambhava dầu là trẻ con, nhưng đã được phú cho sự gắn bó với trí tuệ. Xin ngài chớ xem thường em (nghĩ rằng): ‘Trẻ con,’ rồi không hỏi Sambhava. Thưa vị Bà-la-môn, sau khi hỏi Sambhava, em có thể biết về phúc lợi và công lý.
33. Sam-bha cũng vậy, mầm non,
Thông minh trí tuệ vượt hơn tuổi vàng,
Hỏi Sam-bha, chớ coi thường
Em thông thái, nó tận tường Thiện Chân.
2882. Svādhippāgā bhāradvājo sambhavassa upantikaṃ, tamaddasa mahābrahmā kīḷamānaṃ bahīpure.
2882. Vị đại Bà-la-môn Bhāradvāja đã nhanh chóng đi đến khu vực của Sambhava, và đã nhìn thấy vị ấy đang đùa giỡn ở bên ngoài thành phố.
34. Lúc ấy Bhà-rad lại vội vàng
Ðến Sam-bha gấp tại gia đường
Ở ngoài công lộ, kìa ngay đó
Cậu bé đùa chơi thấy rõ ràng.
2883. Raññohaṃ pahito dūto koravyassa yasassino,
atthaṃ dhammañca pucchesi iccabravi yudhiṭṭhilo,
taṃ tvaṃ atthañca dhammañca sambhavakkhāhi pucchito.
2883. “Tôi là sứ giả được ủy nhiệm của đức vua Koravya có danh tiếng. Vị vua dòng dõi Yudhiṭṭhila đã nói như vầy: ‘Khanh hãy hỏi về phúc lợi và công lý.’ Này Sambhava, được hỏi, em hãy nói về phúc lợi và công lý ấy.”
35. Ðến vi thánh chỉ chúa Câu-lâu,
Dòng dõi Yu-dhi, hiện thỉnh cầu,
Hiền điệt Sam-bha, cho chú biết,
Thiện lương, Chân lý phải là đâu?
2884. Taggha te ahamakkhissaṃ yathāpi kusalo tathā,
rājā ca kho taṃ jānāti yadi kāhati vā na vā.
2884. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo sẽ nói như thế nào thì con cũng sẽ nói với ông như thế ấy. Và đức vua, đương nhiên hiểu được điều ấy, tuy nhiên đức vua sẽ làm hay không làm (không phải là lỗi của con).
36. Hiền hữu, ta nay sẽ bảo ngài,
Ðúng như bậc trí phải trình bày,
Vua cần biết rõ điều Chân Thiện,
Song việc vua làm, ai có hay?
2885. Ajja suveti saṃseyya raññā puṭṭho sucīrata,
mā katvā avasī rājā atthe jāte yudhiṭṭhilo.
2885. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chuyện hôm nay hãy để ngày mai,’ (thì nên nói rằng): ‘Khi lợi ích sanh khởi, đức vua Yudhiṭṭhila không nên thực hành và sống như vậy.’
37. Ðáp lại đức vua, hãy tấu ngài:
“Ngày nay không hẳn giống ngày mai,
Thần khuyên Chúa thượng nên thông suốt
Nắm lấy thời cơ kịp đến tay”.
2886. Ajjhattaññeva saṃseyya raññā puṭṭho sucīrata,
kummaggaṃ na niveseyya yathā mūḷho acetaso.
2886. Thưa ông Sucīrata, khi được đức vua hỏi: ‘Có người tuyên bố chỉ có bản ngã,’ (thì nên nói rằng): ‘Không nên đi vào con đường sai trái, giống như kẻ ngu si không có tâm tư.’
38. Ta ước mong hiền hữu tế sư
Gợi cho vua biết cách suy tư,
Nhờ đây tâm trí ngài an lạc:
Vua phải tránh xa mọi oán thù,
Cũng chớ đi theo đường ác độc
Như là người độn trí mê mờ.
2887. Attānaṃ nātivatteyya adhammaṃ na samācare,
atitthe nappatāreyya anatthe na yuto siyā.
2887. Không nên vượt qua bản thân, không nên thọ trì phi pháp, không nên dẫn đến nơi không phải bến đỗ (dẫn đến 62 tà kiến), không nên gắn bó ở điều không có lợi ích.
39. Ðừng gây tội lỗi mất tâm hồn,
Ðừng phạm hành vi bất chánh chơn,
Ðừng có bao giờ theo ác hạnh,
Ðừng đưa huynh đệ bước sai đường.
2888. Yo ca etāni ṭhānāni kattuṃ jānāti khattiyo,
sadā so vaḍḍhate rājā sukkapakkheva candimā.
2888. Và vị Sát- đế- lỵ nào biết thực hiện các công việc này, vị vua ấy luôn luôn lớn mạnh, tựa như mặt trăng vào thượng tuần.
40. Ai biết hoàn thành đúng chánh chân
Những điều này, giống nguyệt tròn dần,
Như vua danh tiếng tăng lên mãi,
Làm ánh sáng soi đám bạn thân,
2889. Ñātīnañca piyo hoti mittesu ca virocati,
kāyassa bhedā sappañño saggaṃ so upapajjatī ”ti.
2889. Và người có trí tuệ được yêu quý trong số các thân quyến, và sáng chói ở giữa bạn bè; do sự hoại rã của thân, vị ấy sẽ tái sanh vào cõi Trời.”
Yêu mến họ hàng, khi tận mạng
Hiền nhân sẽ đạt đến thiên cung.
Sambhavajātakaṃ.
***
Bổn Sanh Bậc Trí Sambhava. [515]
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda