Đại Phẩm Ii – Chương Y Phục: Tụng Phẩm Thứ Ba
Đại Phẩm II
Chương Y Phục
Tụng Phẩm Thứ Ba
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao khiến chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ.
Khi ấy, đức Thế Tôn trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn hầu cận đã nhìn thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ, sau khi nhìn thấy đã bảo đại đức Ānanda rằng: – “Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?” – “Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này bị lấm lem vì chất dơ.” – “Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao vì các vị ấy có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, các vị nào dầu là phàm nhân đã xa lìa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.”
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ở đây trong lúc đang đi dạo quanh các trú xá cùng với Ānanda là Sa-môn hầu cận ta đã nhìn thấy chỗ nằm ngồi bị lấm lem vì chất dơ, sau khi nhìn thấy đã hỏi Ānanda rằng: ‘Này Ānanda, tại sao chỗ nằm ngồi này bị lấm lem?’ ‘Bạch ngài, hiện nay các vị tỳ khưu sau khi thọ thực thức ăn hảo hạng, có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Trong khi các vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, rồi tinh dịch bị xuất ra do chiêm bao. Bạch đức Thế Tôn, do đó chỗ nằm ngồi này đã bị lấm lem vì chất dơ.’ ‘Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, điều ấy là như thế! Này Ānanda, bởi vì đối với các vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, trong khi rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của họ bị xuất ra do chiêm bao. Này Ānanda, các vị tỳ khưu nào có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ, tinh dịch của các vị ấy không bị xuất ra. Này Ānanda, ngay cả các vị nào dầu là phàm nhân đã xa lìa sự tham đắm trong các dục, tinh dịch của các vị ấy cũng không bị xuất ra. Này Ānanda, tinh dịch của vị A-la-hán có thể bị xuất ra là điều không có thực tế, không có cơ sở.’
Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ khổ sở, thức dậy khổ sở, thấy điều ác xấu trong khi ngủ, chư Thiên không hộ trì, tinh dịch bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi của vị có niệm bị xao lãng, không tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ: (Vị ấy) ngủ an lạc, thức dậy an lạc, không thấy điều ác xấu trong khi ngủ, chư Thiên hộ trì, tinh dịch không bị xuất ra. Này các tỳ khưu, đây là năm điều thuận lợi của vị có niệm được thiết lập, được tỉnh giác, và rơi vào giấc ngủ. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vật lót ngồi để bảo vệ cơ thể, để bảo vệ y, để bảo vệ chỗ nằm ngồi.”
Vào lúc bấy giờ, vật lót ngồi[4] quá nhỏ nên không bảo vệ được toàn bộ chỗ nằm ngồi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị mong muốn tấm trải nằm1 lớn chừng nào thì được làm tấm trải nằm lớn chừng ấy.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Belaṭṭhisīsa, thầy tế độ của đại đức Ānanda, có bệnh ghẻ sần sùi. Các y bị dính vào thân vì chất máu mủ của vị ấy. Các vị tỳ khưu liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra.
Đức Thế Tôn trong khi đi dạo quanh các chỗ trú ngụ đã nhìn thấy các vị tỳ khưu ấy liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần các vị tỳ khưu ấy, sau khi đến gần đã nói với các vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu này bị bệnh gì vậy?” – “Bạch ngài, đại đức này bị bệnh ghẻ sần sùi, các y bị dính vào thân vì chất máu mủ, chúng con liên tục tẩm ướt các y với nước rồi kéo ra.”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) y đắp ghẻ đối với vị nào bị ghẻ ngứa, hoặc bị nhọt, hoặc có vết thương chảy mủ, hoặc bị ghẻ sần sùi.”
Khi ấy, bà Visākhā mẹ của Migāra đã cầm cái khăn lau mặt đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, bà Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin hãy thọ lãnh cái khăn lau mặt của con vì điều ấy đem lại sự lợi ích và sự an vui lâu dài cho con.” Đức Thế Tôn đã thọ nhận cái khăn lau mặt.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho bà Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, bà Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khăn lau mặt.”
Vào lúc bấy giờ, Roja người Malla là bạn của đại đức Ānanda. Tấm vải dệt bằng sợi lanh của Roja người Malla đã bị rơi xuống ở cánh tay của đại đức Ānanda. Và đại đức Ānanda có nhu cầu về vải dệt bằng sợi lanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người có năm yếu tố: là vị đồng quan điểm, thân thiết, đã được nói trước, (vị ấy) còn sống, và vị lấy biết được rằng: “Khi được ta lấy thì vị ấy sẽ hoan hỷ.” Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy do sự thân thiết (đồ vật) của người có năm yếu tố này.”
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu có được đầy đủ ba y, và còn có nhu cầu về các đồ lọc nước và các túi mang. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép miếng vải phụ tùng.”
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Các vật nào đã được đức Thế Tôn cho phép như là ‘ba y,’ hoặc là ‘vải choàng tắm mưa,’ hoặc là ‘vật lót ngồi,’ hoặc là ‘tấm trải nằm,’ hoặc là ‘y đắp ghẻ,’ hoặc là ‘khăn lau mặt,’ hoặc là ‘miếng vải phụ tùng,’ tất cả các thứ ấy nên được chú nguyện để dùng riêng hay là nên được chú nguyện để dùng chung?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng riêng ba y không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng vải choàng tắm mưa trong bốn tháng của mùa mưa sau đó chú nguyện để dùng chung vào các tháng khác, chú nguyện để dùng riêng vật lót ngồi không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng tấm trải nằm không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng y đắp ghẻ lúc còn bị bệnh sau đó chú nguyện để dùng chung vào lúc khác, chú nguyện để dùng riêng khăn lau mặt không được chú nguyện để dùng chung, chú nguyện để dùng riêng miếng vải phụ tùng không được chú nguyện để dùng chung.” Khi ấy, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Y nên được chú nguyện để dùng chung (có kích thước) tối thiểu là bao nhiêu?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chú nguyện để dùng chung y (có kích thước) tối thiểu với chiều dài là tám ngón tay với chiều rộng là bốn ngón tay theo ngón tay tiêu chuẩn.”
Vào lúc bấy giờ, y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ của đại đức Mahākassapa là nặng nề (do việc đắp lên miếng vá ở các chỗ bị sờn). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) việc mạng bằng chỉ.” (Y) có góc bị thừa. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt góc bị thừa.” Các mối chỉ bị xổ ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép gắn vào miếng vải viền, (làm) đường biên xung quanh.” Vào lúc bấy giờ, các mảnh vải của y hai lớp bị bung ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm đường may ngang dọc.”
Vào lúc bấy giờ, trong lúc y của vị tỳ khưu nọ đang được làm, toàn bộ các mảnh cắt không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) được cắt, một (y) không cắt.” Hai (y) được cắt một (y) không cắt là không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép hai (y) không cắt, một (y) được cắt.” Hai (y) không cắt một (y) được cắt là không đủ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép đặt vào miếng vải khác loại. Và này các tỳ khưu, không nên sử dụng toàn bộ (ba y) không cắt; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có nhiều y được phát sanh đến vị tỳ khưu nọ. Và vị ấy có ý muốn cho đến cha mẹ y ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trong khi nói là: ‘cha mẹ,’ thì chúng ta có thể nói điều gì? Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến cha mẹ. Và này các tỳ khưu, không nên cho vật bố thí vì đức tin đến không đối tượng không xứng đáng; vị nào cho đến đối tượng không xứng đáng thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã để lại y hai lớp trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đã lấy trộm y ấy. Vị tỳ khưu ấy trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm. Các tỳ khưu đã nói như vầy: – “Này đại đức, vì sao ngài lại trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm?” – “Này các đại đức, trường hợp này là tôi đã để lại y ở trong khu rừng Andhavana rồi đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Những kẻ trộm đã lấy trộm y ấy, vì thế tôi trở thành ăn mặc bê bối y phục luộm thuộm.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên đi vào làng với y nội và thượng y; vị nào đi vào thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda vì thiếu sự ghi nhớ nên đã đi vào làng để khất thực với y nội và thượng y. Các tỳ khưu đã nói với đại đức Ānanda điều này: – “Này đại đức Ānanda, không phải đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên đi vào làng với y nội và thượng y’ hay sao? Này đại đức, vì sao ngài đã đi vào làng với y nội và thượng y?” – “Này các đại đức, đúng vậy. Đức Thế Tôn quy định rằng: ‘Không nên đi vào làng với y nội và thượng y.’ Hơn nữa, tôi đã đi vào (làng) với sự thiếu ghi nhớ.”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa,[5] hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y hai lớp.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại thượng y: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại thượng y.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y nội: vị bị bệnh, hoặc là sự quy định về mùa mưa, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vị có Kaṭhina đã được thành tựu. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại y nội.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa: vị bị bệnh, hoặc là vị đi ra khỏi ranh giới, hoặc là vị đi qua bên kia sông, hoặc là trú xá có sự an toàn với then cài, hoặc là vải choàng (tắm) mưa không được làm hoặc được làm chưa hoàn tất. Này các tỳ khưu, đây là năm điều kiện cho việc để lại vải choàng (tắm) mưa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng đã dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy khởi đã ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng tối thiểu là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một mình. Và các người này đã dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này tỳ khưu, các y ấy là của chính ngươi cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina.”
“Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa chỉ mỗi một mình. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép các y ấy là của chính vị ấy cho đến khi hết hiệu lực của Kaṭhina.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sống ngoài mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng đã dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị’ và ta chỉ có mỗi một mình. Và các người này đã dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ hay là ta nên đem các y thuộc về hội chúng này đến Sāvatthi?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã cầm lấy các y ấy đi đến Sāvatthi và trình sự việc ấy đến các vị tỳ khưu. Các vị tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chia ra bởi hội chúng đang hiện diện.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sống ngoài mùa (an cư) mưa có một mình. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng.’ Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ấy chú nguyện các y ấy rằng: ‘Những y này là của tôi.’ Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy chưa được chú nguyện thành của vị tỳ khưu ấy thì có vị tỳ khưu khác đi đến, nên trao cho phần chia đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy nhưng chưa được bốc thăm thì có vị tỳ khưu khác đi đến, nên trao cho phần chia đồng đều nhau. Này các tỳ khưu, nếu trong khi y ấy đang được chia bởi các vị tỳ khưu ấy và đã được bốc thăm thì có tỳ khưu khác đi đến, không cần trao cho phần chia nếu không thích.”
Vào lúc bấy giờ, có hai vị trưởng lão là anh em: đại đức Isidāsa và đại đức Isibhadda đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đã đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Dân chúng (nghĩ rằng): “Đã lâu lắm các trưởng lão mới ghé đến” rồi đã thực hiện các bữa thọ trai cùng với các y. Các tỳ khưu thường trú đã hỏi hai vị trưởng lão rằng: – “Thưa các ngài, những y thuộc hội chúng này đã được phát sanh nhờ vào các trưởng lão, các trưởng lão sẽ hoan hỷ phần chia hay không?” Hai vị trưởng lão đã nói như vầy: – “Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn thì các y này là thuộc về chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.”
Vào lúc bấy giờ, có ba vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở trong thành Rājagaha. Ở đó, dân chúng dâng các y (nói rằng): “Chúng tôi dâng đến hội chúng.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Hội chúng ít nhất là nhóm bốn vị’ và chúng ta chỉ có ba vị. Và các người này dâng các y (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng đến hội chúng,’ vậy chúng ta nên thực hành như thế nào?”
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị trưởng lão là đại đức Nīlavāsī, đại đức Sāṇavāsī, đại đức Gopaka, đại đức Bhagu, và đại đức Phaḷikasandāna cư ngụ ở Pāṭaliputta tại tu viện Kukkuṭa. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã đi đến Pāṭaliputta và hỏi các vị trưởng lão. Các vị trưởng lão đã nói như vầy: – “Này các đại đức, theo như chúng tôi biết về Pháp đã được thuyết giảng bởi đức Thế Tôn thì các y ấy là thuộc về chính các vị cho đến khi Kaṭhina hết hiệu lực.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi, rồi đã đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Ở đó, các tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy đã nói như vầy: – “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” – “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó, vị ấy đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các tỳ khưu cũng đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” – “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, vị ấy đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các tỳ khưu cũng đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, các y thuộc về hội chúng này sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?” – “Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.” Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, vị ấy đã cầm lấy gói y lớn rồi quay trở về lại Sāvatthi.
Các tỳ khưu đã nói như vầy: – “Này đại đức Upananda, ngài có phước lớn. Nhiều y đã được phát sanh đến ngài.” – “Này các đại đức, phước của tôi là do đâu? Ở đây, tôi đã sống qua mùa (an cư) mưa ở Sāvatthi rồi đã đi đến trú xứ là ngôi làng nọ. Ở đó, các tỳ khưu đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy đã nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Sau khi nhận phần y từ nơi đó, tôi đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu cũng đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Sau khi nhận phần y từ nơi đó nữa, tôi đã đi sang trú xứ khác. Ở nơi đó, các vị tỳ khưu cũng đã tụ hội lại với ý định chia y. Các vị ấy cũng đã nói với tôi như vầy: ‘Này đại đức, các y này thuộc về hội chúng sẽ được chia, ngài sẽ chấp nhận phần chia hay không?’ ‘Này các đại đức, xin vâng. Tôi sẽ chấp nhận.’ Tôi đã nhận phần y từ nơi đó nữa, như thế mà nhiều y đã được phát sanh đến tôi.”
– “Này đại đức Upananda, có phải ngài đã sống mùa (an cư) mưa ở một nơi và chấp nhận phần y ở một nơi khác?” – “Này các đại đức, đúng vậy.” Các tỳ khưu nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Upananda con trai dòng Sakya đã sống mùa (an cư) mưa ở một nơi lại chấp nhận phần y ở một nơi khác?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này Upananda, nghe nói ngươi đã sống mùa (an cư) mưa ở một nơi và chấp nhận phần y ở một nơi khác, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này kẻ rồ dại, vì sao ngươi sống mùa (an cư) mưa ở một nơi lại chấp nhận phần y ở một nơi khác? Này kẻ rồ dại, việc sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, vị sống mùa (an cư) mưa ở nơi khác không nên chấp nhận phần y ở nơi khác; vị nào chấp nhận thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Upananda con trai dòng Sakya một mình đã sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ (nghĩ rằng): “Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.” Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Phần chia về y nên được cho đến đại đức Upananda con trai dòng Sakya như thế nào?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, hãy cho đến kẻ rồ dại phần của một người.
Này các tỳ khưu, trường hợp một vị tỳ khưu sống mùa (an cư) mưa ở hai trú xứ (nghĩ rằng): ‘Như vầy nhiều y sẽ được phát sanh đến ta.’ Nếu vị ấy sống chỗ này một nửa (thời gian) chỗ kia một nửa (thời gian) thì nên cho phần chia về y gồm một nửa của nơi này một nửa của nơi kia, hoặc ở chỗ nào vị ấy sống nhiều hơn thì phần chia về y nên được cho từ chỗ đó.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh kiết lỵ. Vị ấy nằm dài ở đống phân và nước tiểu của chính mình, bị lem luốc. Khi ấy, trong lúc đi dạo quanh các trú xá cùng với đại đức Ānanda là Sa-môn hầu cận, đức Thế Tôn đã đi đến trú xá của vị tỳ khưu ấy.
Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đang nằm dài ở đống phân và nước tiểu của chính mình, bị lem luốc, sau khi nhìn thấy đã đi đến gần vị tỳ khưu ấy, sau khi đến đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này tỳ khưu, ngươi bị bệnh gì?” – “Bạch Thế Tôn, con bị bệnh kiết lỵ.” – “Này tỳ khưu, ngươi có người phục vụ không?” – “Bạch Thế Tôn, không có.” – “Vì sao các tỳ khưu lại không phục vụ ngươi?” – “Bạch ngài, con là người không có làm gì cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ con.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo đại đức Ānanda rằng: – “Này Ānanda, hãy đi và mang nước lại. Chúng ta sẽ tắm cho vị tỳ khưu này.” – “Bạch ngài, xin vâng.” Rồi đại đức Ānanda nghe theo đức Thế Tôn đã mang nước lại. Đức Thế Tôn đã xối nước. Đại đức Ānanda đã rửa ráy toàn bộ. Rồi đức Thế Tôn đã đỡ phần đầu, đại đức Ānanda ở phần chân, đã nâng lên và đặt ở trên giường.
Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại rồi hỏi các vị tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, có phải có vị tỳ khưu ở trú xá đàng kia bị bệnh?” – “Bạch Thế Tôn, thưa có.” – “Này các tỳ khưu, vị ấy bị bệnh gì?” – “Bạch ngài, đại đức ấy bị bệnh kiết lỵ.” – “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy có người phục vụ không?” – “Bạch Thế Tôn, không có.” – “Vì sao các tỳ khưu không phục vụ vị ấy?” – “Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy là người không có làm gì cho các tỳ khưu, do đó các tỳ khưu không phục vụ vị ấy.”
– “Này các tỳ khưu, các ngươi không có mẹ, không có cha là những người có thể phục vụ các ngươi. Này các tỳ khưu, nếu các ngươi không phục vụ lẫn nhau thì giờ đây ai sẽ phục vụ đây? Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta (bằng sự thực hành theo lời giáo huấn và giảng dạy của ta), vị ấy có thể phục vụ người bệnh.[6] Nếu có thầy tế độ, thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có thầy dạy học, thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có đệ tử, người đệ tử nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có học trò, người học trò nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có vị đồng thầy tế độ, vị đồng thầy tế độ nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu có vị đồng thầy dạy học, vị đồng thầy dạy học nên phục vụ đến hết đời, nên chờ đợi (đến khi) vị ấy có sự hồi phục. Nếu không có thầy tế độ, hoặc thầy dạy học, hoặc người đệ tử, hoặc người học trò, hoặc vị đồng thầy tế độ, hoặc vị đồng thầy dạy học, hội chúng nên phục vụ; nếu không phục vụ thì phạm tội dukkaṭa.
Này các tỳ khưu, người bệnh là khó phục vụ có năm yếu tố: Là người có hành động không có lợi ích; không biết sự vừa phải trong việc có lợi ích; không quen dùng dược phẩm; không nói rõ ràng về bệnh tình đúng theo thực trạng như (bệnh) đang gia tăng là: ‘(Bệnh) gia tăng,’ (bệnh) đang giảm là: ‘(Bệnh) giảm,’ (bệnh) ổn định là: ‘(Bệnh) ổn định’ cho người phục vụ bệnh nhân có sự mong muốn điều tốt đẹp; có bản tánh không chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh có năm yếu tố này là khó phục vụ.
Này các tỳ khưu, người bệnh là dễ phục vụ có năm yếu tố: Là người có hành động có lợi ích; biết sự vừa phải trong việc có lợi ích; quen dùng dược phẩm; nói rõ ràng về bệnh tình đúng theo thực trạng như (bệnh) đang gia tăng là: ‘(Bệnh) gia tăng,’ (bệnh) đang giảm là: ‘(Bệnh) giảm,’ (bệnh) ổn định là: ‘(Bệnh) ổn định’ cho người phục vụ bệnh nhân có sự mong muốn điều tốt đẹp; có bản tánh chịu đựng được các cảm thọ khổ, khốc liệt, sắc bén, gay gắt, không chút thích thú, khó chịu, chết người thuộc cơ thể đã sanh khởi. Này các tỳ khưu, người bệnh có năm yếu tố này là dễ phục vụ.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân không thích hợp để phục vụ người bệnh là vị có năm yếu tố: Là vị không có khả năng để phân phát thuốc men; không biết điều gì có lợi ích và điều gì không có lợi ích, đem đến điều không có lợi ích và loại bỏ điều có lợi ích; phục vụ người bệnh vì mục đích tài vật và không có tâm từ; ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; không có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân có năm yếu tố này là không thích hợp để phục vụ người bệnh.
Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân thích hợp để phục vụ người bệnh là vị có năm yếu tố: Là vị có khả năng để phân phát thuốc men; biết điều gì có lợi ích và điều gì không có lợi ích, loại bỏ điều không có lợi ích và đem đến điều có lợi ích; có tâm từ và phục vụ người bệnh không vì mục đích tài vật; không ghê tởm việc dọn dẹp nước tiểu, phân, nước giải, vật nôn mửa; có khả năng để chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho người bệnh bằng bài Pháp thoại lúc này lúc khác. Này các tỳ khưu, người phục vụ bệnh nhân có năm yếu tố này là thích hợp để phục vụ người bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu đi đường xa trong xứ sở Kosala. Hai vị ấy đã đi đến trú xứ nọ. Ở đó, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Khi ấy, các vị tỳ khưu ấy đã bàn bạc điều này: “Này đại đức, việc phục vụ người bệnh đã được đức Thế Tôn khen ngợi. Này đại đức, vậy chúng ta hãy phục vụ vị tỳ khưu này.” Các vị ấy đã phục vụ vị kia. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đã từ trần.
Sau đó, các tỳ khưu đã cầm lấy y bát của vị tỳ khưu kia đi đến Sāvatthi và đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và bình bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và bình bát thông qua hội chúng.
Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy: Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) đã từ trần, đây là ba y và bình bát của vị ấy. Hội chúng cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ý việc cho ba y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên. Ba y và bình bát này đã được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Vào lúc bấy giờ, có vị sa di nọ từ trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, đối với vị sa di khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và bình bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh y và bình bát thông qua hội chúng.
Và này các tỳ khưu, nên được ban cho như vầy: Vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy nên đi đến gặp hội chúng và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy.’ Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đây là lời đề nghị. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị sa di tên (như vầy) đã từ trần, đây là y và bình bát của vị ấy. Hội chúng cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh. Đại đức nào đồng ý việc cho y và bình bát này đến các vị phục vụ người bệnh xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên. Y và bình bát này đã được hội chúng cho đến các vị phục vụ người bệnh. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ và vị sa di đã phục vụ vị bị bệnh. Trong khi được các vị ấy phục vụ, vị kia đã từ trần. Khi ấy, vị tỳ khưu phục vụ người bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Phần chia về y nên được cho đến vị sa di là vị phục vụ người bệnh như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép cho đến vị sa di là vị phục vụ người bệnh phần chia đồng đều.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có nhiều đồ đạc, có nhiều vật dụng đã từ trần. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, đối với vị tỳ khưu khi từ trần, hội chúng là chủ về các y và bình bát. Tuy nhiên các vị phục vụ người bệnh lại có nhiều công đức. Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho các vị phục vụ người bệnh ba y và bình bát thông qua hội chúng, (cho phép) hội chúng đang hiện diện phân chia đồ đạc loại nhẹ và vật dụng loại nhẹ ở nơi ấy, (cho phép) đồ đạc loại nặng và vật dụng loại nặng ở nơi ấy là của hội chúng bốn phương hiện tại và vị lai,[7] không được phân tán, không được phân chia.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ sau khi làm trở thành trần truồng đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, sự trần truồng này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép sự trần truồng đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lõa thể? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên thực hành nghi thức của ngoại đạo là sự lõa thể; vị nào thực hành thì phạm tội thullaccaya.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ che thân bằng cỏ kusa ―(như trên)― che thân bằng vỏ cây ―(như trên)― che thân bằng tấm ván gỗ ―(như trên)― che thân bằng mền dệt bằng tóc ―(như trên)― che thân bằng mền dệt bằng lông ngựa ―(như trên)― che thân bằng cánh chim cú ―(như trên)― che thân bằng da linh dương rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (việc che thân bằng) da linh dương này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn theo nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép (việc che thân bằng) da linh dương đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc da linh dương vốn là biểu tượng của ngoại đạo? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên mặc da linh dương vốn là biểu tượng của ngoại đạo; vị nào mặc thì phạm tội thullaccaya.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ mặc (y làm bằng) sợi của cây akka, ―(như trên)― mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, đức Thế Tôn là người thường ngợi khen về sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, (y làm bằng) sợi của cây makaci này đưa đến sự ít tầm cầu, sự biết đủ, sự từ khước, sự tiết chế, sự hài hòa, sự đoạn giảm, sự ra sức tinh tấn bằng nhiều phương thức. Bạch ngài, tốt đẹp thay xin đức Thế Tôn hãy cho phép (y làm bằng) sợi của cây makaci đến các tỳ khưu.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này kẻ rồ dại, thật không đúng đắn, không hợp lẽ, không thích đáng, không xứng pháp Sa-môn, không được phép, không nên làm! Này kẻ rồ dại, tại sao ngươi lại mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci? Này kẻ rồ dại, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên mặc (y làm bằng) sợi của cây makaci; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc các y toàn màu xanh, … mặc các y toàn màu vàng, … mặc các y toàn màu đỏ (máu), … mặc các y toàn màu tím, … mặc các y toàn màu đen, … mặc các y toàn màu đỏ tía, … mặc các y toàn màu hồng, … mặc các y không cắt đường viền, … mặc các y có đường viền rộng, … mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, … mặc các y có đường viền vẽ hình rắn hổ mang, … mặc áo choàng ngắn, … mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, … mang khăn xếp đội đầu. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại mang khăn xếp đội đầu giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên mặc các y toàn màu xanh, không nên mặc các y toàn màu vàng, không nên mặc các y toàn màu đỏ (máu), không nên mặc các y toàn màu tím, không nên mặc các y toàn màu đen, không nên mặc các y toàn màu đỏ tía, không nên mặc các y toàn màu hồng, không nên mặc các y không cắt đường viền, không nên mặc các y có đường viền rộng, không nên mặc các y có đường viền vẽ bông hoa, không nên mặc các y có đường viền vẽ hình rắn hổ mang, không nên mặc áo choàng ngắn, không nên mặc loại vải dệt bằng sợi vỏ cây tirīṭaka, không nên mang khăn xếp đội đầu; vị nào mang thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn.
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, thì hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh thì được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y chưa phát sanh được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn, thì hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia lại ra đi, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia lại hoàn tục, từ trần, được biết là (xuống) sa di, được biết là người đã xả bỏ sự học tập, được biết là vị phạm tội cực nặng, thì hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia thì được biết là vị bị điên, được biết là bị loạn trí, được biết là vị bị thọ khổ hành hạ, được biết là vị bị án treo về việc không nhìn nhận tội, được biết là vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi, được biết là vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác, nên trao cho vị nhận thế thích hợp đang hiện diện.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa khi y đã được phát sanh nhưng chưa phân chia được biết là kẻ vô căn, được biết là kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu), được biết là kẻ đã đi theo ngoại đạo, được biết là thú vật, được biết là kẻ giết mẹ, được biết là kẻ giết cha, được biết là kẻ giết A-la-hán, được biết là kẻ làm nhơ tỳ khưu ni, được biết là kẻ chia rẽ hội chúng, được biết là kẻ làm chảy máu (đức Phật), được biết là kẻ lưỡng căn, thì hội chúng là chủ quản.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở một nhóm (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến hội chúng.’ (Y) ấy là của hội chúng.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở chính nhóm ấy (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến hội chúng.’ (Y) ấy là của hội chúng.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở một nhóm (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến nhóm.’ (Y) ấy là riêng của nhóm.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y chưa được phát sanh thì hội chúng bị chia rẽ. Ở đó, dân chúng dâng nước ở một nhóm và dâng y ở chính nhóm ấy (nói rằng): ‘Chúng tôi dâng y đến nhóm.’ (Y) ấy là riêng của nhóm.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa và y đã được phát sanh nhưng chưa chia phần thì hội chúng bị chia rẽ. Nên chia đồng đều cho tất cả.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata gởi y cho đại đức Sāriputta qua tay của vị tỳ khưu nọ (nói rằng): “Hãy trao y này đến vị trưởng lão.” Sau đó ở khoảng giữa đường đi, vị tỳ khưu ấy đã lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức Revata. Sau đó, đại đức Revata đã đích thân đi đến đại đức Sāriputta và hỏi rằng: – “Thưa ngài, tôi đã gởi y cho ngài trưởng lão. Y ấy đã đến chưa?” – “Này sư đệ, ta không nhìn thấy y ấy.” Sau đó, đại đức Revata đã nói với vị tỳ khưu ấy điều này: – “Này đại đức, tôi đã gởi y của ngài trưởng lão qua tay của đại đức. Y ấy đâu rồi?” – “Thưa đại đức, tôi đã lấy y ấy do sự thân thiết với đại đức.”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đã được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi đi; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị gởi (y) đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị (gởi) ấy; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị sẽ nhận (y) đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị (đã từ trần) ấy; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hãy trao y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Cả hai đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy xác định y của người đã chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đã được xác định sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị gởi (y) đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị sẽ nhận; (y) đã được lấy đúng đắn.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Vị sẽ nhận (y) đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị ấy; (y) đã được xác định đúng đắn. Vị ấy lấy (y ấy) do sự thân thiết với vị gởi; (y) đã được lấy sai trái.
Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu gởi y qua tay của vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Tôi cho y này đến vị tên (như vầy).’ Ở khoảng giữa đường đi, vị ấy nghe rằng: ‘Cả hai đã từ trần’ rồi xác định y của người đã chết là thuộc về vị gởi đi; (y) đã được xác định sai trái. Vị ấy xác định y của người đã chết là thuộc về vị sẽ nhận; (y) đã được xác định đúng đắn.
Này các tỳ khưu, có tám tiêu đề về việc phát sanh y: (thí chủ) dâng trong ranh giới, dâng theo sự thỏa thuận, dâng theo sự thông báo về vật thực, dâng đến hội chúng, dâng đến cả hai hội chúng (tỳ khưu và tỳ khưu ni), dâng đến hội chúng đã sống qua mùa (an cư) mưa, dâng sau khi đã thông báo, dâng đến cá nhân.
(Thí chủ) dâng trong ranh giới: có bao nhiêu vị tỳ khưu đang ở trong ranh giới, thì nên được chia bởi các vị ấy.
(Thí chủ) dâng theo sự thỏa thuận: nhiều trú xứ có sự thọ lãnh chung, khi được dâng ở một trú xứ thì được dâng cho tất cả.
(Thí chủ) dâng theo sự quy định về vật thực: các sự hộ độ thường xuyên được thực hiện đến hội chúng ở nơi nào thì dâng ở nơi ấy.
(Thí chủ) dâng đến hội chúng thì nên được chia phần bởi hội chúng đang hiện diện.
(Thí chủ) dâng đến cả hai hội chúng: Dầu cho có nhiều tỳ khưu mà có một tỳ khưu ni cũng nên được chia một nửa. Dầu cho có nhiều tỳ khưu ni mà có một tỳ khưu cũng nên được chia một nửa.
(Thí chủ) dâng đến hội chúng đã sống qua mùa (an cư) mưa: có bao nhiêu vị tỳ khưu đã sống qua mùa (an cư) mưa ở trú xứ ấy, thì nên được chia bởi các vị ấy.
(Thí chủ) dâng sau khi đã thông báo về cháo, hoặc về bữa ăn, hoặc về vật thực cứng, hoặc về y, hoặc về chỗ trú ngụ, hoặc về dược phẩm.
(Thí chủ) dâng đến cá nhân là (nói rằng): ‘Tôi dâng y này đến vị tên (như vầy).’”
Dứt chương Y Phục là thứ tám.
*****
Trong chương này có chín mươi sáu sự việc.
Tóm lược chương này
Viên thị trưởng thành Rājagaha đã nhìn thấy nàng kỹ nữ ở Vesāli, sau khi trở về lại thành Rājagaha đã báo điều ấy đến đức vua.
Người con trai của nàng Sālavatī chính là con (nuôi) của Abhaya. Được hỏi bởi vị vương tử là: “Còn sống không?” nên gọi tên là “Jīvaka.”
Chính người ấy đã đi đến thành Takkasilā, đã học xong, trở thành đại y sĩ, đã tiêu trừ bệnh đã bảy năm bằng việc làm ở mũi.
(Jīvaka) đã trị dứt bệnh rò rỉ của đức vua bằng liều thuốc thoa. (Đức vua bảo): “Hãy phục vụ cho trẫm, các cung phi, đức Phật và hội chúng.”
Và nhà đại phú thành Rājagaha, chứng xoắn ruột đã được chữa trị. (Jīvaka) đã tiêu trừ bệnh bệnh trầm trọng của đức vua Pajjota bằng việc uống bơ lỏng.
Chức vụ, và xấp vải xứ Sivi, (Jīvaka) đã bảo thoa dầu cho (cơ thể) bị tiết ra dịch chất dơ, liều thuốc xổ ba mươi lần với ba nắm sen.
Khi (đức Phật) đã trở lại bình thường, (Jīvaka) đã thỉnh cầu điều ước muốn. Và Ngài đã thọ nhận xấp vải xứ Sivi. Và đức Như Lai đã cho phép y là vật thí của gia chủ.
Ở xứ sở Rājagaha nhiều y đã được phát sanh. Tấm vải choàng, luôn cả tấm vải choàng bằng tơ lụa, tấm choàng lông, (tấm mền len) trị giá nửa kāsi.
Và nhiều (y) đủ loại, sự biết đủ, về các vị không chờ và các vị chờ, vào trước tương tợ vào sau, sự thỏa thuận, họ đã mang về lại.
Kho chứa, và không được bảo quản, và các vị bãi nhiệm cũng tương tợ y như thế, được dồi dào, và cảnh náo động, nên chia như thế nào, nên cho như thế nào.
Của bản thân, với phần nhiều hơn, phần chia (về y), nên cho thế nào? Với phân, và nước lạnh, để trào ra, vị không biết.
Trong khi đổ ra, và chậu nhuộm, trong cái đĩa, và ở nền đất, loài mối, ở giữa, chúng bị sờn, một bên, và với (y) bị cứng.
(Các y) bị thô, không cắt, được kết nối bằng những khoảnh vuông vức. Ngài đã nhìn thấy các vị ôm đồm (với các y). Sau khi suy xét, đấng Hiền Sĩ dòng Sakya đã cho phép ba y.
Với y phụ trội khác, đã được phát sanh, và luôn cả y bị rách. (Mây đen) bốn châu lục, bà (Visākhā) đã thỉnh cầu điều ước muốn để được dâng vải choàng (tắm) mưa.
Vị vãng lai, vị xuất hành, vị bị bệnh, và vị nuôi bệnh, dược phẩm, cháo thường xuyên, và vải choàng tắm (các ni). (Thức ăn) hảo hạng, (vật lót ngồi) quá nhỏ.
Ghẻ sần sùi, (khăn lau) mặt, sợi lanh, được đầy đủ, việc chú nguyện, tối thiểu, đã được làm, là nặng nề, có góc bị thừa, chỉ bị xổ ra.
(Các mảnh vải) bị bung ra, làm không đủ, vải khác loại, và có nhiều (y), rừng Andhavana, thiếu sự ghi nhớ, một mình, mùa (an cư) mưa, và trong mùa khác.
Hai vị là anh em, ở Rājagaha, vị Upananda, lại ở hai nơi, bệnh kiết lỵ, vị bị bệnh, cả hai vị, và luôn cả các vật thuộc về vị bệnh.
Vị lõa thể, cỏ kusa, vỏ cây, tấm ván gỗ, và mền dệt bằng tóc, lông ngựa, và cánh chim cú, da linh dương sợi của cây akka.
Sợi của cây makaci, màu xanh, và màu vàng, màu đỏ (máu), và màu tím, màu đen, màu đỏ tía, màu hồng, và đường viền không cắt là tương tợ.
Đường viền rộng, vẽ bông hoa, rắn hổ mang, áo choàng ngắn, sợi vỏ cây, và khăn xếp đội đầu, khi chưa được phát sanh, vị ra đi, cho đên phần hội chúng bị chia rẽ.
Họ dâng đến nhóm, đến hội chúng, đại đức Revata đã gởi đi, vị lấy do thân thiết, vị chú nguyện, tám tiêu đề về y.”
–ooOoo–
[4] Được dịch là vật lót ngồi thay vì tọa cụ, và tấm trải nằm thay vì ngọa cụ (ND).
[5] Ngài Buddhaghosa giải thích là trong bốn tháng mùa mưa (VinA. v, 1129).
[6] yo bhikkhave maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyā ’ti: Câu này được dịch sát theo từ sẽ là: “Này các tỳ khưu, vị nào có thể phục vụ ta vị ấy có thể phục vụ người bệnh.” Tuy nhiên Ngài Buddhaghosa giải thích ý nghĩa của câu trên như sau: “yo bhikkhave maṃ upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyyā ’ti yo maṃ ovādānusāsanīkaraṇena upaṭṭhaheyya, so gilānaṃ upaṭṭhaheyya. mama ovādakārakena gilāno upaṭṭhātabbo ti ayam ettha attho. bhagavato ca gilānassa ca upaṭṭhānaṃ ekasadisan ti evaṃ pan’ ettha attho na gahetabbo” (VinA. v, 1132) = “Vị nào có thể phục vụ ta bằng sự thực hành theo lời giáo huấn và giảng dạy, vị ấy có thể phục vụ người bệnh. Ở đây điều này có ý nghĩa là: ‘Người bệnh nên được phục vụ bởi người thực hành theo lời giáo huấn của ta.’ Hơn nữa, không nên hiểu ý nghĩa của trường hợp này như vầy: ‘Sự phục vụ đến đức Thế Tôn và đến người bệnh là tương tợ như nhau.’”
[7] āgatānāgata = āgata + anāgata: đã đi đến và chưa đi đến, được dịch thoát nghĩa là hiện tại và vị lai (ND).
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)