Tiểu Bộ – Bổn Sanh Ii: Nhóm Ba Mươi Kệ Ngôn (tiếp Theo) – Bài 6-10
MAIN CONTENT
- TIỂU BỘ
- BỔN SANH II: NHÓM BA MƯƠI KỆ NGÔN (tiếp theo) – BÀI 6-10
- ▪ 6. MĀHĀKAPIJĀTAKAṂ – BỔN SANH CON KHỈ VĨ ĐẠI
- 516. Chuyện khỉ chúa (Tiền thân Mahàkapi)
- ▪ 7. DAKARAKKHASAPAÑHO – CÂU HỎI CỦA THỦY THẦN
- 517. Tiền thân Dakarakkhasa
- ▪ 8. PAṆḌARAKAJĀTAKAṂ – BỔN SANH RỒNG CHÚA PAṆḌARAKA
- 518. Chuyện long vương Pandara (Tiền thân Pandara)
- ▪ 9. SAMBULĀJĀTAKAṂ – BỔN SANH HOÀNG HẬU SAMBULĀ
- 519. Chuyện Hoàng hậu Sambulà (Tiền thân Sambulà)
- ▪ 10. GANDHATINDUKAJĀTAKAṂ – BỔN SANH THẦN CÂY TINDUKA
- 520. Chuyện vị thần cây Tindu (Tiền thân Gandatindu)
TIỂU BỘ
BỔN SANH II: NHÓM BA MƯƠI KỆ NGÔN (tiếp theo) – BÀI 6-10
▪ 6. MĀHĀKAPIJĀTAKAṂ – BỔN SANH CON KHỈ VĨ ĐẠI
516. Chuyện khỉ chúa (Tiền thân Mahàkapi)
2890. Bārāṇassaṃ ahu rājā kāsīnaṃ raṭṭhavaḍḍhano, mittāmaccaparibūḷho agamāsi migājiraṃ.
2890. Đức vua của xứ Kāsi ngụ ở thành Bārāṇasī là bậc làm hưng thịnh đất nước. Được tháp tùng bởi các thân hữu và các viên quan đại thần, đức vua đã đi đến vườn hoa Migājira.
1. Tương truyền đại đế xứ Kà-si,
Một thuở Ba-la-nại trị vì,
Cùng với hiền thần trên đại lộ
Vào đến Vườn Nai một bữa kia.
2891. Tattha brāhmaṇamaddakkhi setaṃ citraṃ kilāsinaṃ, viddhastaṃ koviḷāraṃva kisaṃ dhamanisanthataṃ.
2891. Tại nơi ấy, đức vua đã nhìn thấy một vị Bà-la-môn bị bệnh cùi, (làn da) có lốm đốm màu trắng, có vết thương bị lở loét tựa như bông hoa koviḷāra, (có thân thể) gầy ốm, nổi đầy gân.
2. Ðằng kia vua thấy gã La-môn,
Một bộ xương khô bước chập chờn,
Da trắng vì mang dòng máu hủi,
Xù xì xương xẩu tựa cây mun.
2892. Paramakāruññataṃ pattaṃ disvā kicchagataṃ naraṃ, avaca byamhito rājā yakkhānaṃ katamonusi.
2892. Sau khi nhìn thấy người đàn ông bị lâm cảnh khó khăn, đã đạt đến trạng thái bi thương tột độ, đức vua bị sửng sốt, đã nói rằng: “Ngươi là loại nào trong số các Dạ-xoa?
3. Ngạc nhiên trước cảnh tượng đau thương
Của kẻ không may, nặng khổ buồn:
“Thật tội nghiệp ngươi”, ngài phán hỏi,
Tên gì, ác quỷ phận đành mang?
2893. Hatthapādā ca te setā tato setataraṃ siro, gattaṃ kammāsavaṇṇante kilāsabahulo vasī.
2893. Các tay chân của ngươi màu trắng, và đầu còn trắng hơn thế nữa. Thân thể của ngươi có làn da lốm đốm. Ngươi sống với nhiều bệnh ngoài da.
4. Giống như tuyết trắng cả tay chân,
Ta chắc đầu ngươi lại trắng hơn,
Thân thể ngươi tràn đầy vết hủi,
Bệnh kia ghi dấu ấn riêng phần.
2894. Vaṭṭanāvaḷi saṅkāsā piṭṭhi te ninnatunnatā, kāḷapabbāva te aṅgā nāññaṃ passāmi edisaṃ.
2894. (Xương sống) lưng của ngươi lồi lên lõm xuống giống như một chuỗi gồm các trục quay. Tay chân của ngươi tựa như các khúc dây leo màu đen. Trẫm chưa thấy người nào khác giống như thế này.
5. Lưng ngươi như suốt chỉ giăng hàng,
Lồi lõm, dài ngoằn lại uốn quăn,
Xương khớp đen điu như mẩu gỗ,
Chẳng hề ai thấy kẻ ngang bằng!
2895. Ugghaṭṭapādo tasito kiso dhamanisanthato, chāto ātattarūposi kutosi kattha gacchasi.
2895. Ngươi có bàn chân bị rách tươm, run rẩy, gầy ốm, nổi đầy gân, đói khát, có dáng vẻ cằn cỗi. Ngươi từ đâu đến? Ngươi đi về đâu?
6. Ngươi từ đâu đến, kẻ lang thang,
Khốn khổ bơ vơ, da bọc xương,
Ðầu đội nắng trời nung bức lửa,
Chịu bao đói khát quá đau thương?
2896. Duddasī appakārosi dubbaṇṇo bhīmadassano, janetti yāpi te mātā na taṃ iccheyya passituṃ.
2896. Ngươi có bộ dạng xấu xí, không được bình thường, xấu tướng, có hình dáng ghê rợn. Thậm chí mẹ của ngươi, là người sanh ra ngươi, cũng không muốn nhìn thấy ngươi.
7. Hình hài tàn phá thật kinh hoàng,
Chẳng xứng nhìn lên ánh nhật quang,
Ngay chính mẹ ngươi chắc cũng chẳng
Còn mong nhìn trẻ quá tồi tàn!
2897. Kiṃ kammamakarā pubbe kiṃ avajjhaṃ aghātayi, kibbisaṃ yaṃ karitvāna idaṃ dukkhaṃ upāgami.
2897. Ngươi đã tạo nghiệp gì trước đây? Có phải ngươi đã giết người vô tội, và sau khi gây ra tội ác ấy, ngươi đã đi đến sự khổ đau này?”
8. Ác nghiệp gì xưa ngươi đã gây
Hay là ngộ sát kẻ nào đây,
Tội gì người phạm, ta mong biết,
Xui khiến ngươi mang nỗi khổ này?
2898. Taggha te ahamakkhissaṃ yathāpi kusalo tathā, saccavādiṃ hi lokasmiṃ pasaṃsantīdha paṇḍitā.
2898. “Chắc chắn rồi, vị thiện xảo nói như thế nào thì thần cũng sẽ nói với bệ hạ như thế ấy. Bởi vì, các bậc sáng suốt ở thế gian này khen ngợi người có lời nói chân thật.
9. Thần xin thưa thật với Tôn quân
Hành động đúng như một thiện nhân,
Vì kẻ không bao giờ dối trá,
Người hiền khen ngợi giữa phàm trần.
2899. Eko caraṃ gogavese mūḷho accasariṃ vane, araññe īriṇe vivane nānākuñjarasevite.
2899. Trong khi một mình lang thang cho việc tìm kiếm các con trâu, thần bị lạc lối và đã đi vào quá sâu trong khu rừng, không người lai vãng, nơi hoang vu, vắng vẻ, được vô số con voi lai vãng.
10. Xưa kia thần đến một rừng hoang,
Tìm kiếm đàn trâu tối lạc đàng,
Băng mãi lối mòn rừng rậm rạp,
Nơi loài voi ở, bước lang thang.
2900. Vāḷamigānucarite vippanaṭṭhosmi kānane, acariṃ tattha sattāhaṃ khuppipāsā samappito.
2900. Thần đã bị lạc mất phương hướng ở trong khu rừng rậm, nơi các loài thú dữ thường lui tới. Thần đã lang thang ở nơi ấy bảy ngày, phải chịu đựng đói khát.
11. Lạc trong rừng rậm quá hoang sơ,
Chịu đói khát đau khổ xót xa,
Suốt bảy ngày ròng thần lẩn quẩn,
Chốn loài hổ dữ mớm con thơ.
2901. Tattha tindukam addakkhiṃ visamaṭṭhaṃ bubhukkhito, papātamhi lambantaṃ sampannaphaladhārinaṃ.
2901. Tại nơi ấy, bị đói vô cùng, thần đã nhìn thấy cây tinduka mọc chênh vênh, mang nặng những trái ngon ngọt đang treo lủng lẳng ở bên vực thẳm.
12. Trái độc tối kinh, cũng cứ thèm
Ô kìa, đôi mắt bỗng bừng lên:
Cây xinh lắt lẻo ngang bờ vực,
Lơ lửng trái thơm trĩu nhánh mềm.
2902. Vātasītāni bhakkhesiṃ tāni rucciṃsu me bhusaṃ, atitto rukkhamāruyha tattha hessāmi āsito.
2902. Thần đã ăn những trái bị rụng xuống bởi gió, chúng đã làm cho thần hứng thú rất nhiều. Chưa được thỏa mãn, (thần đã nghĩ rằng): ‘Sau khi trèo lên cây, ta sẽ được ăn ở trên đó.’
13. Những trái rơi theo gió lạnh rung
Thần nhai ngấu nghiến nuốt thơm lừng,
Vẫn còn khao khát, thần leo vội:
“Cách ấy no nê được vẹn toàn”.
2903. Ekamme bhakkhitaṃ āsi dutiyaṃ abhipatthitaṃ, tato sā bhañjatha sākhā chinnā pharasunā viya.
2903. Thần đã ăn được một trái, và (với tay ra) mong được trái thứ hai. Do đó, cành cây ấy đã gãy lìa, tựa như bị chặt đứt bởi cái rìu.
14. Chưa từng ăn quả chín ngon sao!
Thần vội giơ tay hái thật nhiều,
Cành lá, dựa thân vào gãy đứt
Như là chặt bởi búa ông tiều.
2904. Sohaṃ sahāva sākhāhi uddhapādo avaṃsiro, appatiṭṭhe anālambe giriduggasmiṃ pāpataṃ.
2904. Thần đây cùng với các cành cây, chân phía trên đầu phía dưới, đã rơi xuống khe núi hiểm trở, không đứng lên được, không nơi bám víu.
15. Cành gãy làm cho ngã lộn thân,
Không gì chặn lại, rớt nhanh dần
Trên bờ vực thẳm, đầy tường đá,
Không thoát khỏi hang vực thẳm cùng.
2905. Yasmā ca vārigambhīraṃ tasmā na samapajjasiṃ, tattha sesiṃ nirānando anātho dasa rattiyo.
2905. Và bởi vì độ sâu của nước nên thần đã không làm gì được. Thần đã nằm ở nơi ấy mười đêm, không chút vui thích, không gì nương tựa.
16. Nước sâu nằm dưới bờ vực kia,
Cứu mạng không tan nát thảm thê,
Rồi bất hạnh thay, thần tuyệt vọng,
Mười đêm nằm đợi thật dài ghê!
2906. Athettha kapi māgañchi gonaṅguṭṭho darīvaro, sākhāhi sākhaṃ vicaranto khādamāno dumapphalaṃ.
2906. Rồi có con khỉ đã đi đến nơi này, là loài khỉ có đuôi dài như đuôi bò, sống ở hang động. Nó di chuyển từ cành này sang các cành khác và ăn trái cây.
17. Cuối cùng một chú Khỉ dài đuôi
Trú ẩn trong hang đá, đến nơi,
Nhảy nhót cành này sang bụi nọ,
Hái ăn trái chín thật xinh tươi.
2907. So maṃ disvā kisaṃ paṇḍuṃ kāruññamakarā mayi, ambho ko nāma so ettha evaṃ dukkhena aṭṭito
manusso amanusso vā attānaṃ me pavedaya.
2907. Nhìn thấy thần gầy ốm, vàng vọt, con khỉ đã có lòng thương xót đến thần (nói rằng): ‘Này ông, ông đây là ai mà phải bị hành hạ một cách khổ sở như vầy? Ông là người hay là phi nhân? Ông hãy cho tôi biết về bản thân.’
18. Chợt thấy thần vàng vọt héo khô,
Ðộng lòng trắc ẩn, Khỉ kêu to:
“Khốn thay! Ta thấy ai nằm đó
Tuyệt vọng đau thương ngập tận bờ
Như vậy, ví như người hoặc quỷ,
Ông là ai đó, nói nguyên do”.
2908. Tassañjaliṃ paṇāmetvā idaṃ vacanamabraviṃ, manussohaṃ byasampatto sā me natthi ito gati,
taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo tvañca me saraṇaṃ bhava.
2908. Sau khi cúi mình chắp tay với nó, thần đã nói lời nói này: ‘Ta là người, ta bị lâm cảnh khốn cùng. Lối đi ra khỏi nơi này không có cho ta. Ta nói điều ấy cho ngươi. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho ngươi. Và ngươi hãy là nơi nương nhờ cho ta.’
19. Thần đầy cung kính, vội thưa ngay:
“Một kẻ khốn cùng chính lão đây,
Song phước đức dành cho Khỉ hết,
Nếu tìm được cách cứu thân này”.
2909. Garusilaṃ gahetvāna vicaraṃ pabbate kapi, silāya yoggaṃ katvāna nisabho etadabravi.
2909. Trong khi di chuyển ở ngọn núi, con khỉ đã chọn lấy một tảng đã lớn. Sau khi thực hiện việc tính toán với tảng đá, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này:
20. Chúa Khỉ chuyển cành ở núi cao,
Mang hòn đá nặng lực anh hào,
Ấy nhờ tu luyện tròn công hạnh,
Mục đích tỏ bày trọng đại sao:
2910. Ehi me piṭṭhimāruyha gīvaṃ gaṇhāhi bāhuhi, ahaṃ taṃ uddharissāmi giriduggata vegasā.
2910. ‘Ông hãy đến, hãy leo lên lưng tôi và hãy ôm cổ tôi bằng hai cánh tay, tôi sẽ mang ông lên khỏi khe núi hiểm trở một cách mau chóng.’
21. “Tôn ông, trèo đến chỗ lưng này,
Quanh cổ ta, ghì chặt cánh tay,
Tức tốc ta đem ông thoát khỏi
Vách tường đá, chính cảnh tù đày”.
2911. Tassa taṃ vacanaṃ sutvā vānarindassa sirīmato, piṭṭhimārūyha dhīrassa gīvaṃ bāhāhi aggahiṃ.
2911. Nghe được lời nói ấy của con khỉ chúa có sự vinh quang ấy, thần đã leo lên lưng của con khỉ sáng suốt và đã ôm cổ nó bằng hai cánh tay.
22. Hoan hỷ, thần ghi nhớ rõ ràng
Lời khuyên của chúa Khỉ vinh quang,
Trèo lên lưng nọ, đôi tay bám,
Quanh cổ trí nhân thật vững vàng.
2912. So maṃ tato samuṭṭhāsi tejassī balavā kapi, vihaññamāno kicchena giriduggata vegasā.
2912. Con khỉ có năng lực và có sức mạnh ấy, trong lúc bị mệt nhọc bởi sự khó khăn, đã nhanh chóng đưa thần lên khỏi khe núi hiểm trở.
23. Chúa Khí lúc này thật mạnh thay,
Kiên cường can đảm đến như vầy
Dẫu rằng mệt lả vì hao sức,
Chốc lát đưa lên vách đá dày.
2913. Uddharitvāna maṃ santo nisabho etadabravi, iṅgha maṃ samma rakkhassu passupissaṃ muhuttakaṃ.
2913. Sau khi mang thần lên, bị kiệt sức, con khỉ lực lưỡng đã nói điều này: ‘Nào, ông hãy bảo vệ tôi cẩn thận, tôi sẽ ngủ trong chốc lát.
24. Kéo thần xong, cất tiếng anh hùng:
“Ta mệt nhoài: xin đứng hộ phòng,
Bên cạnh mình ta, tôn giả hỡi,
Trong khi ta ngủ giấc say nồng.
2914. Sīhā vyagghā ca dīpī ca acchakokataracchayo, te maṃ pamattaṃ hiṃseyyuṃ te tvaṃ disvā nivāraya.
2914. Các con sư tử, các con cọp, các con báo, và các con gấu, chó sói, và chó rừng, chúng có thể hãm hại tôi khi tôi đã ngủ say. Ông hãy trông chừng và ngăn chặn chúng.’
25. Các thứ như beo, gấu, hổ, sư,
Nếu nhìn ta, thấy quá thờ ơ,
Chúng liền giết hại ta ngay đấy,
Tôn giả canh phòng, chớ phải lo”.
2915. Evaṃ me parittātūna passupi so muhuttakaṃ, tadāhaṃ pāpakaṃ diṭṭhiṃ paṭilacchiṃ ayoniso.
2915. Sau khi đã tạo sự hộ trì bởi thần như vậy, con khỉ ấy đã ngủ trong chốc lát. Khi ấy, thần đã có ý nghĩ xấu xa, không đúng đắn rằng:
26. Trong lúc thần đang đứng hộ phòng
Hầu vương đánh một giấc an thân,
Một tư tưởng xấu xa nhen nhúm
Tiềm ẩn lan dần ở nội tâm:
2916. Bhakkho ayaṃ manussānaṃ yathā caññe vane migā, yannūnimaṃ vadhitvāna chāto khādeyyaṃ vānaraṃ.
2916. ‘Đây là thức ăn của loài người, giống như các con thú khác ở trong rừng. Bị đói lả, có lẽ ta nên giết chết và ăn thịt con khỉ này.
27. “Khỉ, vượn, hươu, nai thật ngọt ngon
Vậy sao ta chẳng giết hầu vương
Ðỡ cơn đói khát và con thịt
Cung cấp cho ta món tuyệt trần?
2917. Asito ca gamissāmi maṃsamādāya sambalaṃ, kantāraṃ nittharissāmi pātheyyaṃ me bhavissati.
2917. Và khi đã ăn no, ta sẽ ra đi mang theo thịt làm thức ăn dự phòng. Ta sẽ đi ra khỏi khu rừng hoang. Sẽ có thực phẩm đi đường cho ta.’
28. Khi no dạ, chẳng muốn chần chờ,
Song kiếm thật đầy thực phẩm khô,
Tích trữ cho nhiều ngày vất vả,
Từ rừng ta sẽ kiếm đường ra”.
2918. Tato silaṃ gahetvāna matthakaṃ sannitāḷayiṃ, mama bhatta kilantassa pahāro dubbalo ahu.
2918. Sau đó, thần đã cầm lấy tảng đá và đã đánh vào đầu (con khỉ). Trong khi mệt nhọc vì (thiếu) thức ăn, cú đánh của thần đã là yếu ớt.
29. Cầm viên đá suýt đánh tan tành
Chiếc sọ kia, song bởi phận mình
Tay vụng về đưa lên loạng quạng,
Vung ra yếu ớt chẳng nên hình.
2919. So ca vegenudappatto kapi rudhira makkhito, assupuṇṇehi nettehi rodanto maṃ udikkhati.
2919. Và con khỉ ấy đã mau chóng đứng lên, đầm đìa máu me. Với hai con mắt đẫm lệ, nó ngước nhìn thần, than khóc rằng:
30. Chúa Khỉ nhanh chân nhảy ngọn cây
Toàn thân bê bết máu tuôn đầy,
Từ xa trách móc nhìn thần mãi
Với cặp mắt tuôn lệ chảy dài:
2920. Māyyo maṃ kari bhaddante tvaṃ ca nāmedisaṃ kari, tvaṃ ca kho nāma dīghāyu aññe vāretumarahasi.
2920. ‘Thưa tôn ông, ông chớ làm vậy với tôi. Ông đây đã làm cái việc như thế này! Và thật vậy, ông đây lại có thể ngăn chặn người khác về tuổi thọ!
31. “Cầu trời ban phước lộc tôn ông,
Ðừng làm như vậy, chỉ cầu mong
Kẻo sau số phận ngài, ta chắc
Gặp phải người hành động bất nhân.
2921. Aho vata re purisa tāva dukkarakāraka, edisā visamā duggā papātā uddhato mayā.
2921. Ôi, thật vậy sao, hỡi gã đàn ông! Hỡi kẻ làm công việc khó làm đến chừng này! Ông đã được tôi mang lên từ vực thẳm hiểm trở, chênh vênh như thế ấy!
32. Than ôi nhục nhã đến như vầy!
Sao trả ơn ta cách thế này?
Vì đã cứu ông ra thoát khỏi
Vực kia sâu thẳm hãi kinh đầy!
2922. Ānīto paralokāva dubbheyyaṃ maṃ amaññatha, tantena pāpadhammena pāpaṃ pāpena cintitaṃ.
2922. Kẻ đã được đem về từ nơi được ví như thế giới bên kia đã tưởng rằng tôi là có thể phản bội. Việc ác ấy được suy nghĩ bởi kẻ ác có pháp ác ấy.
33-34. Cứu tử, chơi trò phản bội ta
Âm mưu việc ác với tâm ma,
2923. Mā heva tvaṃ adhammaṭṭha vedanaṃ kaṭukaṃ phusi, māheva pāpakammantaṃ phalaṃ veḷuṃva taṃ vadhi.
2923. Này kẻ sống theo phi pháp, mong rằng ngươi chớ có gánh chịu cảm thọ cay đắng, chớ có giống như kẻ gánh chịu ác nghiệp ấy, tương tự như trái ở cây tre đã hại chết cây tre ấy.
Coi chừng, kẻ ác, e đày đọa,
Khốc liệt xuất từ ác nghiệp kia
Ðem họa tử vong cho chủ nó,
Khác nào trái giết gốc tre già.
2924. Tayi me natthi vissāso pāpadhammo asaññato, ehi me piṭṭhito gaccha dissamānova santike.
2924. Không còn sự tin tưởng của ta ở nơi ngươi nữa, này kẻ có ác pháp không được chế ngự. Ngươi hãy đến, hãy đi ở phía sau lưng của ta, sao cho ngươi còn được nhìn thấy ở khoảng cách không xa.
35. Ta chẳng còn tin tưởng ở ngươi,
Vì ngươi làm ác với ta rồi,
Hãy đi tới trước kia cho khéo,
Còn để ta nhìn thấy bóng thôi.
2925. Muttosi hatthā vālānaṃ pattosi mānusiṃ padaṃ, esamaggo adhammaṭṭha tena gaccha yathāsukhaṃ.
2925. Ngươi đã được thoát khỏi tầm tay của các dã thú, ngươi đã đạt đến dấu vết của loài người. Này kẻ sống theo phi pháp, đây là con đường, ngươi hãy đi theo lối đó một cách thoải mái.’
36. Thoát bầy dã thú đói tìm mồi,
Ngươi trở về nơi sống đời
Thẳng tắp con đường dài trước mặt,
Ði theo như ý muốn nhà ngươi”.
2926. Idaṃ vatvā giricaro ruhiraṃ pakkhālya matthakaṃ, assūni sampamajjitvā tato pabbatamāruhi.
2926. Nói xong điều này, con khỉ đã rửa sạch cái đầu đẫm máu. Sau khi lau sạch những giọt nước mắt, nó đã từ nơi ấy leo lên ngọn núi.
37. Ðến đây, dòng lệ Khỉ lau khô,
Vội vã nhanh chân nhảy xuống hồ
Rửa sạch chiếc đầu bê bết máu
Ôi, vì thần, đã chảy tuôn ra!
2927. Sohaṃ tenābhisattosmi parilāhena addito, ḍayhamānena gattena vāriṃ pātuṃ upāgamiṃ.
2927. Thần đây bị con khỉ ghét bỏ, bị hành hạ bởi cơn sốt, với thân thể bị đốt nóng, thần đã đi đến gần (hồ nước) để uống nước.
38. Từ đấy, đầy đau khổ đoạn trường,
Ðốt thiêu, vò xé bởi Hầu vương,
Lê bước thân tàn, thần thất thểu,
Tìm nơi giải khát cho mình luôn.
2928. Agginā viya santatto rahado rudhiramakkhito, pubbalohitasaṅkāso sabbo me samapajjatha.
2928. Hồ nước, giống như bị thiêu đốt bởi ngọn lửa, trở thành bị lấm lem bởi máu. Tất cả, đối với thần, đã trở nên như là mủ và máu.
39. Nhưng khi thần đến vũng hồ kia,
Mặt nước đều loang lổ máu me,
Một dòng đỏ sẫm dần dần hiện
Thành một đám như lửa lập lòe.
2929. Yāvanto udabindūni kāyasmiṃ nipatiṃsu me, tāvanto gaṇḍū jāyetha aḍḍhabeḷuva sādisā.
2929. Có bao nhiêu giọt nước đã rơi xuống thân thể của thần, thì có bấy nhiêu mụt nhọt đã sanh lên, có kích thước bằng một nửa trái câybeḷuva.
40. Mỗi giọt nước kia dính đến thân,
Hóa thành mụt nhọt lớn lên dần,
Như Vil-va trái khô rồi nứt
Giống hệt sắc da lẫn cỡ tầm.
2930. Pabhinnā pagghariṃsu me kuṇapā pubbalohitā, yena yeneva gacchāmi gāmesu nigamesu ca.
2930. Bị vỡ ra, các mụt nhọt rỉ ra máu mủ từ thân thể hôi thối của thần. Thần đi đến con đường nào, ở các thôn làng và ở các thị thành–
41. Máu mủ tràn ra thật đáng nhờm,
Nơi nào thần muốn được an thân,
Dù là thành thị hay thôn dã,
Dân chúng chạy bay hỗn loạn luôn.
2931. Daṇḍahatthā nivārenti itthiyo purisā ca maṃ, okiṇṇā pūtigandhena māssu orena āgamā.
2931. –bị tràn ngập bởi mùi hôi thối, những người đàn bà và đàn ông, tay cầm gậy gộc, ngăn chận thần lại (nói rằng): ‘Chớ đến gần phía chúng tôi.’
42. Lảng tránh vì mùi quá thối tha,
Trong khi gậy, đá cứ tung ra:
“Này tên khốn nạn! Ðừng đi đến
Gần chúng ta!” Toàn thể hét la.
2932. Etādisaṃ idaṃ dukkhaṃ satta vassānidāni me, anubhomi sakaṃ kammaṃ pubbe dukkaṭamattano.
2932. Nỗi khổ đau như thế này của thần đến nay đã bảy năm. Thần chịu đựng nghiệp của mình, là việc đã làm sai trái của bản thân trước đây.
43. Như vậy khổ đau thật đáng thương,
Thần mang theo suốt bảy năm trường,
Tùy theo hạnh nghiệp mình gây tạo,
Mỗi người đi đến một con đường.
2933. Taṃ vo vadāmi bhaddaṃ vo yāvantettha samāgatā, māssu mittāna dubbhittho mittadubbho hi pāpako.
2933. Tôi nói điều ấy cho quý vị. Mong rằng điều tốt lành hãy có cho quý vị, hết thảy những người đã tụ hội ở đây. Các vị chớ có phản bội các bạn bè, bởi vì việc phản bội bạn bè là xấu xa.
44. Thần ước mong chư vị vạn an,
Mọi người, thần gặp gỡ trên đàng,
Xin đừng phản bạn, ôi hèn hạ,
Kẻ phạm tội mưu chống bạn vàng!
2934. Kuṭṭhī kilāsī bhavati yo mittānaṃ idhaddubhī, kāyassa bhedā mittaddu nirayaṃ so upapajjatī ”ti.
2934. Người nào phản bội các bạn bè ở đời này sẽ trở thành kẻ bị cùi, bị ghẻ lở, d0 sự hoại rã của thân, kẻ phản bội bạn bè ấy sẽ tái sanh ở địa ngục.”
45. Tất cả những ai với bạn mình
Tỏ ra là kẻ thiếu chân thành,
Như bầy hủi phải ăn năn tội,
Thân hoại, vào trong ngục tái sinh.
Mahākapijātakaṃ.
***
Bổn sanh Con Khỉ Vĩ Đại. [516]
***
▪ 7. DAKARAKKHASAPAÑHO – CÂU HỎI CỦA THỦY THẦN
517. Tiền thân Dakarakkhasa
2935. Sace vo vuyhamānānaṃ sattannaṃ udakaṇṇave, manussabalimesāno nāvaṃ gaṇheyya rakkhaso
anupubbaṃ kathaṃ datvā muñcesi dakarakkhino.
2935. “Nếu trong lúc tìm kiếm vật hiến tế là con người, quỷ thần sẽ bắt giữ chiếc tàu gồm bảy người của bệ hạ đang lênh đênh ở biển cả, thì bệ hạ sẽ hiến dâng và trao cho thủy thần theo thứ tự như thế nào?”
217. Bảy người thân của hoàng cung,
Ngự du trên chốn ngàn trùng đại dương,
Quỷ thần đòi hỏi tế đàn,
Khi vừa chụp lấy thuyền vàng của vua,
Những ai ngài sẽ đưa ra,
Dần theo thứ tự để mà cứu nguy?
2936. Mātaraṃ paṭhamaṃ dajjaṃ bhariyaṃ datvāna bhātaraṃ, tato sahāyaṃ datvāna pañcamaṃ dajjaṃ brāhmaṇaṃ chaṭṭhāhaṃ dajjamattānaṃ nevadajjaṃ mahosadhaṃ.
2936. “Trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu trước tiên, rồi hiến dâng hoàng hậu, đến em trai, kế đó hiến dâng người cộng sự, và thứ năm sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn, thứ sáu trẫm sẽ hiến dâng bản thân, và sẽ không bao giờ hiến dâng vị Mahosadha.”
218. Trước tiên mẫu hậu tức thì,
Kế là hoàng hậu chánh phi Nandà,
Tiếp theo tiểu đệ hoàng gia,
Thứ tư thân hữu, năm bà-la-môn,
Chính ta thứ sáu bản thân,
Nhưng ta không hiến Trí nhân của mình!
2937. Posetā te janettī ca dīgharattānukampikā, chambhī tayi paduṭṭhasmiṃ paṇḍitā atthadassinī aññaṃ upanisaṃ katvā vadhā taṃ parimocayi.
2937. “Mẫu hậu là người nuôi dưỡng, là người sanh ra, và là người có lòng thương xót đến bệ hạ trong thời gian dài lâu. Khi bệ hạ bị Chambhī hãm hại, mẫu hậu là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, đã tạo ra người khác giống như bệ hạ để thế chỗ, và đã giúp cho bệ hạ thoát khỏi cái chết.
219. Lệnh bà dưỡng dục sinh thành,
Bao năm tận tụy nhiệt tình với con,
Khi Cham-bhì hại hoàng nam,
Khôn ngoan bà thấy việc làm lợi vua,
Đem người thế chỗ vương gia,
Nên ngài đã được chính bà cứu nguy.
2938. Taṃ tādisaṃ pāṇadadiṃ orasaṃ gabbhadhāriṇiṃ, mātaraṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.
2938. Người phụ nữ như thế ấy đã ban cho mạng sống, đã mang nặng bào thai, đã bồng ẵm bệ hạ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần?”
220. Mẹ cho đời sống từ bi,
Chính bà mang nặng hoàng nhi trong lòng.
Vì đâu là các lỗi lầm,
Ngày đem hiền mẫu hiến dâng thủy thần?
2939. Daharā viya alaṅkāraṃ dhāreti apiḷandhanaṃ, dovārike anīkaṭṭhe ativelaṃ pajagghati.
2939. “Mẫu hậu đeo đồ trang điểm và vật trang sức như là còn con gái. Bà cười lớn tiếng và quá lố, nhạo báng các quân gác cổng và các lính ngự lâm.
221. Giống như thiếu nữ còn xuân
Bà đeo các món bội hoàn nữ trang
Mà bà già chẳng nên mang.
Phi thời bà chế nhạo quân canh phòng.
2940. Tatopi paṭirājānaṃ sayaṃ dūtāni sāsati, mātaraṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.
2940. Kế đó, bà còn dạy bảo các sứ giả của mình đi gặp các vị vua đối nghịch. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng mẫu hậu cho thủy thần.”
222. Lại thường gửi điệp địch vương,
Mà không được lệnh của hoàng gia đây.
Chính vì các lỗi lầm này,
Nên ta đem hiến bà ngay thủy thần!
2941. Itthigumbassa pavarā accantapiyavādinī, anuggatā sīlavatī chāyāva anapāyinī.
2941. “Hoàng hậu là người nữ cao quý trong toán nữ nhân, có giọng nói vô cùng đáng yêu, không làm bộ quý phái, có giới hạnh, không xa cách, tựa như cái bóng,–
223. Lệnh bà đệ nhất hồng quần,
Cực kỳ diễm lệ, nói năng ân cần,
Tràn đầy đức hạnh, nhiệt tâm,
Kề bên hoàng hậu uyên ương bóng hình,
2942. Akkodhanā paññavatī paṇḍitā atthadassinī, ubbariṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.
2942. –không giận dữ, có trí tuệ, là người sáng suốt, quan tâm đến lợi ích, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần?”
224. Chẳng hề giận dỗi bất bình,
Khôn ngoan, thận trọng, chân thành lợi vua.
Vậy vì lầm lỗi đâu mà
Ngài đem hoàng hậu hiến dâng thủy thần?
2943. Khiḍḍāratisamāpannaṃ anatthavasamāgataṃ, sā maṃ sakānaṃ puttānaṃ ayācaṃ yācate dhanaṃ.
2943. “Biết trẫm say đắm với các việc vui đùa cùng những sự thích thú và chịu sự tác động của các trò vô bổ, hoàng hậu cầu xin trẫm phần tài sản thuộc về các người con của trẫm, không thể cho được.
225-226. Nhờ bao vẻ đẹp mê hồn,
Bà hoàng đã khiến vương quân phục tòng,
Chịu nhiều ảnh hưởng bất nhân,
Và đòi những thứ bà không nên đòi
Dành cho con của bà thôi.
2944. Sohaṃ dadāmi sāratto bahuṃ uccāvacaṃ dhanaṃ, suduccajaṃ cajitvāna pacchā socāmi dummano, ubbariṃ tena dosena dajjāmi dakarakkhino.
2944. Bị luyến ái, trẫm đây ban cho hoàng hậu nhiều tài sản cao thấp khác nhau. Sau khi từ bỏ vật rất khó từ bỏ, về sau trẫm sầu muộn, buồn bã. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng hoàng hậu cho thủy thần.”
Vì ta say đắm ban hoài đặc ân.
Ta ban những vật khó ban,
Về sau hối hận muôn vàn đắng cay,
Chính vì các lỗi lầm này.
Ta đem hoàng hậu tế ngay thủy thần!
2945. Yenocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ.
2945. “Nhờ vào người em trai mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác.
227. Chàng đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Chàng đưa Hoàng thượng tái hồi,
Chàng không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
2946. Dhanuggahānaṃ pavaraṃ sūraṃ tikhiṇamantinaṃ, bhārataṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.
2946. Chàng dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần?”
228. Anh hùng thiện xạ vô song,
Ti-khi-na thật tinh thông muôn phần,
Vậy đâu là các lỗi lầm,
Ngài đem hoàng đệ tế dâng thủy thần?
2947. Mayocitā jānapadā ānītā ca paṭiggahaṃ, ābhataṃ pararajjehi abhiṭṭhāya bahuṃ dhanaṃ.
2947. “‘Nhờ vào ta mà dân chúng được tập hợp lại rồi được đưa về nhà, và nhiều tài sản sau khi chiến thắng được mang lại từ các vương quốc khác.
29. “Ta đem phồn thịnh cho dân,
Khi ngài đang ở tha phương xứ người,
Ta đưa Hoàng thượng tái hồi,
Ta không hề bị cuốn lôi bạc vàng.
2948. Dhanuggahānaṃ pavaro sūro tikhiṇamanti ca, mayāyaṃ sukhito rājā atimaññati dārako.
2948. Ta là dũng sĩ Tikhiṇamanti là tuyệt vời trong số các cung thủ. Nhờ vào ta mà vị vua này được sung sướng,’ chàng trai trẻ tự hào như thế.
Ta là thiện xạ vô song,
Anh hùng vô địch tinh thông trí tài.
Ta tôn Hoàng thượng lên ngôi”.
Chàng suy nghĩ vậy, thế rồi về sau.
2949. Upaṭṭhānampi me ayye na so eti yathā pure, bhārataṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.
2949. Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí vị ấy không đi đến hầu cận trẫm giống như trước đây. Vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng em trai cho thủy thần.”
230. Chàng không đi đến cung chầu,
Như thường thuở trước chàng hầu bên ta.
Chính vì lầm lỗi kia mà,
Ta đem hoàng đệ tế dâng thủy tề.
2950. Ekarattena ubhayo tuvañca dhanusekhavā, ubho jātettha pañcālā sahāyā susamāvayā.
2950. “Cả hai người, bệ hạ và Dhanusekhavā, đã được sanh ra cùng một đêm. Cả hai đã được sanh ra ở nơi này, đều là người xứ Pañcāla, là cộng sự, là đồng niên tốt.
231. Ngài và Dha-nu-sek-ha,
Cùng mang tên tộc Pañ-cà-la-mà.
Một đêm hai vị sinh ra,
Vừa là thân hữu vừa là đồng môn,
2951. Cariyā taṃ anubandhittho ekadukkhasukho tava, ussukko te divārattiṃ sabbakiccesu vyāvaṭo,
sahāyaṃ tena dosena dajjāsi dakarakkhino.
2951. Vị ấy đã đi theo bệ hạ trong các cuộc du hành, có chung sự vui khổ với bệ hạ, siêng năng, gắn bó ngày đêm với bệ hạ trong mọi công việc; vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng người cộng sự cho thủy thần?”
Suốt đời hầu cận minh quân,
Đồng cam cộng khổ vui buồn bên nhau.
232. Nhiệt tình thận trọng bấy lâu,
Hết lòng phục vụ kể đâu đêm ngày.
Vậy thì lầm lỗi nào đây,
Ngài đem thân hữu tế ngay thủy thần?
2952. Cariyāya ayaṃ ayye pajagghittho mayā saha, ajjāpi tena vaṇṇena ativelaṃ pajagghati.
2952. “Thưa nữ ẩn sĩ, vị này đã cười lớn tiếng cùng với trẫm trong cuộc du hành, thậm chí hôm nay, cũng với cung cách đó cười lớn tiếng và quá lố.
233. Suốt đời, thưa nữ đạo nhân,
Chàng thường vui thú chung cùng bên ta.
Chính vì duyên cớ ấy mà,
Nay chàng hành động quá là tự do.
2953. Ubbariyāpi me ayye mantayāmi rahogato, anāmantā pavisati pubbe appaṭivedito.
2953. Thưa nữ ẩn sĩ, ngay cả khi trẫm bàn bạc với hoàng hậu ở nơi kín đáo, vị này, không được triệu mời, cũng đi vào không thông báo trước.
234. Nếu ta nói chuyện riêng tư,
Cùng hoàng hậu, cứ xông vô phi thời,
Mà không có lệnh ta đòi,
Cũng không thông báo cho người nào hay.
2954. Laddhavāro katokāso ahirikaṃ anādaraṃ, sahāyaṃ tena dosena dajjāhaṃ dakarakkhino.
2954. Với dịp may đã đạt được, với cơ hội đã được tạo ra, vì tội lỗi ấy, trẫm sẽ hiến dâng người cộng sự vô liêm sỉ, bất kính cho thủy thần.”
235. Nếu cho chàng một dịp may,
Làm điều bất kính, nhục đầy xấu xa,
Chính vì lầm lỗi ấy mà
Ta đem thân hữu hiến cho thủy thần.
2955. Kusalo sabbanimittānaṃ rudaññū āgatāgamo, uppāde supine yutto niyyāne ca pavesane.
2955. “Vị Bà-la-môn là thiện xảo về mọi điềm báo hiệu, biết giải thích về tiếng kêu (của các loài thú), có học thức được truyền thừa, chuyên chú về thiên văn, giải mộng, sự di chuyển đi và đến của các tinh tú,–
236. Tế sư quả thật tinh khôn,
Biết nhiều điềm triệu, thanh âm ở đời,
Chuyên môn đoán rộng, vãng lai,
2956. Paddho bhummantalikkhasmiṃ nakkhattapadakovido, brāhmaṇaṃ kena dosena dajjāsi dakarakkhino.
2956. –là người thông thạo về trái đất và không gian, rành rẽ về các chòm sao, vì tội lỗi gì mà bệ hạ sẽ hiến dâng vị Bà-la-môn cho thủy thần?”
Am tường dấu hiệu đất trời, trăng sao,
Vậy thì do lỗi lầm nào,
Đại vương đem đạo sĩ trao thủy thần?
2957. Parisāyampi me ayye mīlayitvā udikkhati, tasmā ajja bhamuṃ luddaṃ dajjāhaṃ dakarakkhino.
2957. “Thưa nữ ẩn sĩ, thậm chí trong buổi họp, vị này mở mắt nhìn thẳng vào trẫm. Vì thế, hôm nay trẫm sẽ hiến dâng kẻ nhướng mày, dữ tợn cho thủy thần.”
237. Dù ngay ở giữa quần thần,
Lão thường mở mắt trừng trừng nhìn ta,
Nên ta muốn hiến lão già,
Nhăn mày quỷ quái ấy cho thủy thần!
2958. Sasamuddapariyāyaṃ mahiṃ sāgarakuṇḍalaṃ, vasundharaṃ āvasasi amaccaparivārito.
2958. “Được phò tá bởi các cận thần, bệ hạ cư ngụ trên phần đất có đại dương là vòng rào, có biển cả là vành đai, ở quả địa cầu.
238. Đại vương ở giữa triều thần,
Trong châu lục lớn, ngàn trùng biển xanh,
2959. Cāturanto mahāraṭṭho vijitāvī mahabbalo, pathavyā ekarājāsi yaso te vipulaṃ gato.
2959. Có đất nước rộng lớn gồm cả bốn phương, bệ hạ là người thắng trận, có sức mạnh vĩ đại, là vị vua độc nhất ở trên trái đất; danh tiếng của bệ hạ lan truyền rộng khắp.
Thay vì thành lũy bao quanh,
Ngự trên đế quốc hùng anh đại cường,
Độc tôn hoàng đế trần gian,
Thật là vĩ đại vinh quang vô vàn.
2960. Soḷasitthisahassāni āmuttamaṇikuṇḍalā, nānājanapadā nāriyo devakaññūpamā subhā.
2960. Mười sáu ngàn nữ nhân có các bông tai bằng ngọc trai và ngọc ma-ni, thuộc các xứ sở khác nhau, xinh đẹp tương tự như các nàng tiên nữ.
239. Nữ nhi một vạn sáu ngàn,
Điểm tô châu ngọc, nữ trang sáng ngời,
Giai nhân từ khắp mọi nơi,
Khác nào tiên nữ cao vời thiên cung.
2961. Evaṃ sabbaṅgasampannaṃ sabbakāmasamiddhinaṃ, sukhitānaṃ piyaṃ dīghaṃ jīvitaṃ āhu khattiya.
2961. Tâu vị Sát-đế-lỵ, người ta đã nói cuộc sống được đầy đủ mọi yếu tố, được thành tựu tất cả các dục của những người hạnh phúc là đáng yêu và lâu dài.
240. Được dâng mọi thứ cần dùng,
Mọi điều ước nguyện cầu mong vẹn toàn,
Đại vương đã sống trường tồn,
Trong niềm hạnh phúc hân hoan tột cùng.
2962. Atha tvaṃ kena vaṇṇena kena vā pana hetunā, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajasi duccajaṃ.
2962. Vậy thì vì lý do gì, hay là vì nguyên nhân gì, trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, bệ hạ lại từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ?”
Đâu là duyên cớ nguyên nhân,
Hy sinh ngọc thể hộ phòng Trí nhân?
2963. Yatopi āgato ayye mama hatthaṃ mahosadho, nābhijānāmi dhīrassa aṇumattampi dukkataṃ.
2963. “Thưa nữ ẩn sĩ, từ khi Mahosadha đi đến dưới trướng của trẫm, trẫm không hay biết việc làm sai trái nào, dầu là nhỏ nhoi, của bậc sáng trí.
241. Thưa bà, Trí giả Đại thần,
Từ khi đến ở kế gần bên ta,
Ta không hề thấy bao giờ,
Con người khí phách tạo ra lỗi lầm,
Dù là một mảy cỏn con.
2964. Sace ca kismici kāle maraṇaṃ me pure siyā, putte ca me paputte ca sukhāpeyya mahosadho.
2964. Và nếu vào một thời điểm nào đó, cái chết xảy ra cho trẫm trước, vị Mahosadha có thể giúp cho các con và các cháu của trẫm được hạnh phúc.
242. Nếu ta chết trước Trí nhân lúc nào,
Người đem hạnh phúc biết bao,
Cho đàn con cháu mai sau lâu dài.
2965. Anāgataṃ paccuppannaṃ sabbamatthaṃ vipassati, anāparādhakammantaṃ na dajjaṃ dakarakkhino.
2965. Vị ấy nhìn thấy rõ tất cả mọi việc tương lai và hiện tại. Trẫm sẽ không bao giờ hiến dâng vị không có hành động lỗi lầm cho thủy thần.”
243. Người thông minh mọi việc trên đời,
Dù là quá khứ, tương lai xa gần.
Người này không có lỗi lầm,
Ta không muốn tế thủy thần quỷ ma.
2966. Idaṃ suṇotha pañcālā cūḷanīyassa bhāsitaṃ, paṇḍitaṃ anurakkhanto pāṇaṃ cajati duccajaṃ.
2966. “Này những người dân xứ Pañcāla, các người hãy lắng nghe lời nói này của đức vua Cūḷanīya. Trong khi bảo vệ bậc nhân sĩ, đức vua từ bỏ mạng sống là vật khó từ bỏ.
244. Thần dân của xứ Pañ-cà,
Nghe lời này của vua Cù-la-ni,
Bảo toàn bậc Trí giả kia,
Đức vua nào có kể chi mình vàng.
2967. Mātu bhariyāya bhātucca sakhino brāhmaṇassa ca, attano cāpi pañcālo channaṃ cajati jīvitaṃ.
2967. Đức vua xứ Pañcāla từ bỏ mạng sống của sáu người là: người mẹ, người vợ, người em trai, người cộng sự, vị Bà-la-môn, và luôn cả bản thân.
245. Cuộc đời của chính mẫu hoàng,
Em trai, hoàng hậu, thân bằng, bản thân,
Vua Pãn-cà thảy sẵn lòng,
Hy sinh tất cả hiến dâng thủy thần.
2968. Evaṃ mahatthikā paññā nipuṇā sādhucintanī, diṭṭhadhamme hitatthāya samparāye sukhāya cā ”ti.
2968. Như vậy, trí tuệ khôn khéo, sự suy nghĩ tốt đẹp, có ý nghĩa lớn lao cho sự lợi ích và tấn hóa ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.”
246. Diệu kỳ thay trí lực hùng,
Thông minh tài giỏi vô song như vầy,
Chỉ vì ích lợi đời này,
Cùng là hạnh phúc lâu dài đời sau.
Dakarakkhasapañho.
***
Câu Hỏi của Thủy Thần. [517]
***
▪ 8. PAṆḌARAKAJĀTAKAṂ – BỔN SANH RỒNG CHÚA PAṆḌARAKA
518. Chuyện long vương Pandara (Tiền thân Pandara)
2969. Vikiṇṇavācaṃ aniguyha mantaṃ asaññataṃ aparicakkhitāraṃ, bhayaṃ tamanveti sayaṃ abodhaṃ
nāgaṃ yathā paṇḍarakaṃ supaṇṇo.
2969. “Kẻ có lời nói lung tung, không kín đáo,
không cẩn mật, không xem xét toàn diện,
nguy hiểm đi theo kẻ không tự mình thấu hiểu ấy,
giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.
1. Người nào chuyện bí mật đem phơi
Bất cẩn, lòng không muốn giữ lời,
Kẻ ngốc bị kinh hoàng trấn áp,
Như ta, Rồng chúa ngã nhào thôi!
2970. Yo guyhamantaṃ parirakkhaṇeyyaṃ mohā naro saṃsati hāsamāno, taṃ bhinnamantaṃ bhayamanveti khippaṃ nāgaṃ yathā paṇḍarakaṃ supaṇṇo.
2970. Người nào, trong lúc đùa giỡn, vì si mê mà bày tỏ chú thuật bí mật cần được giấu kín, nguy hiểm tức thời đi theo kẻ có chú thuật đã bị tiết lộ ấy, giống như linh điểu đeo đuổi rồng chúa Paṇḍaraka vậy.
2. Người nào ngu xuẩn lộ ra ngoài
Tư tưởng cần che dấu mặt trời,
Kinh hoảng ngập tràn vì lẻo mép,
Như ta, Rồng chúa gặp chim mồi!
2971. Nānumitto garuṃ atthaṃ guyhaṃ veditumarahati, sumitto ca asambuddhaṃ sambuddhaṃ vā anatthavā.
2971. Người bạn sơ giao không xứng đáng để biết ý nghĩa quan trọng cần được giấu kín, và người bạn tốt không khôn ngoan, hoặc kẻ đối nghịch khôn ngoan (cũng vậy).
3. Không nên để bạn hữu tham gia
Ý tưởng thâm trầm nhất của ta,
Bạn tốt có khi đầy xuẩn ngốc,
Kẻ khôn lừa dối, phải phòng xa!
2972. Vissāsamāpajjimahaṃ acelo samaṇo ayaṃ sammato bhāvitatto, tassāhamakkhiṃ vivaraṃ guyhamatthaṃ atītamattho kapaṇaṃ rudāmi.
2972. Tôi đã đạt đến sự tin tưởng rằng: Gã lõa thể này đã được công nhận là vị Sa-môn, có bản thân đã được tu tập. Tôi đã giải thích cho gã ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.
4. Tin tưởng gã, ôi! Có phải chăng?
Chuyên trì khổ hạnh bậc hiền nhân?
Phơi bày bí mật, ta lầm lỗi,
Ta khóc, giờ đây nỗi đoạn trường!
2973. Tassāhaṃ purimaṃ brahme guyhaṃ vācaṃ hi maṃ nāsakkhiṃ saṃyametuṃ, tappakkhato hi bhayamāgataṃ me atītamatthā kapaṇaṃ rudāmi.
2973. Này linh điểu cao cả, bởi vì trước đây tôi đã không thể tự kiềm chế mình về lời nói cần được giấu kín đối với gã ấy. Và chính từ phía gã ấy, nguy hiểm đã đến với tôi. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.
5. Chuyện riêng tư, gã khốn len vào,
Bí mật ta không giữ được nào,
Ta sợ mối nguy từ gã đến,
Giờ ta khóc chính nỗi thương đau.
2974. Yo ve naro suhadaṃ maññamāno guyhamatthaṃ saṃsati dukkulīne, dosā bhayā athavā rāgaratto
pallatthito bālo asaṃsayaṃ so.
2974. Thật vậy, người nào nghĩ là thân tình, rồi bày tỏ ý nghĩa cần được giấu kín cho kẻ có gia tộc thấp kém, bởi vì sân hận, bởi vì sợ hãi, hay là bị đắm say ái luyến, kẻ ngu ấy chắc chắn sẽ bị tiêu tùng.
6. Tưởng bạn trung thành tận tủy xương
Sinh lòng kính sợ, nặng tình thương
Ân tình tiết lộ cho người khác
Ngã gục, người ngu chẳng thể vươn!
2975. Tirokkhavāco asataṃ paviṭṭho yo saṅgatīsu mudīreti vākyaṃ, āsīviso dummukho tyāhu taṃ naraṃ
ārā ārā saṃyame tādisamhā.
2975. Lời nói thầm kín đã bị lan tỏa giữa những người xấu. Kẻ nào thốt lên lời nói ấy ở các cuộc hội họp, người ta đã nói kẻ ấy là: ‘Loài rắn độc, kẻ thối miệng,’ nên tránh xa kẻ như thế ấy, thật xa, thật xa!
7. Ai nói lên cùng đám ác nhân
Ðiều thầm kín phải giữ trong tâm
Ðược xem rắn độc nơi trần giới,
“Kẻ ấy, tránh xa!” Chúng thét rần!
2976. Annaṃ pānaṃ kāsika candanañca manāpitthiyo mālacchādanañca, ohāya gacchāmase sabbakāme
supaṇṇa pāṇūpagatāva tyamhā.
2976. Hãy để cho chúng tôi ra đi sau khi đã bỏ xuống thức ăn, nước uống, vải Kāsi, gỗ trầm hương, các phụ nữ hợp ý, tràng hoa, vật thoa, và tất cả các dục. Này linh điểu, chúng tôi đi đến nương tựa mạng sống vào ngài.”
8. Cẩm y, mỹ nữ, gỗ chiên-đàn
Hương liệu, vòng hoa, thực phẩm ngon,
Mọi dục ác kia, ta tránh cả,
Ðiểu vương, nếu đến giúp Long vương!
2977. Konīdha tiṇṇaṃ garahaṃ upeti asmiñca loke pāṇabhū nāgarāja, samaṇo supaṇṇe athavā taveva
kiṃ kāraṇā paṇḍarakaggahīto.
2977. “Này rồng chúa, ai trong số ba người ở đây xứng đáng sự chê trách, khi ở thế gian này có ba sinh mạng: vị Sa-môn, linh điểu, hay là chính ngài? Này Paṇḍaraka, vì lý do gì ngài đã bị bắt giữ?”
9. Trong chúng ta, ba kẻ sống đây,
Nói tên ai kẻ đáng trách này?
Chẳng sư, chẳng điểu, nhưng ngài ngốc,
Mang họa Long vương nhục nhã đầy!
2978. Samaṇoti me sammatatto ahosi piyo ca me manasā bhāvitatto, tassāhamakkhiṃ vivaraṃ guyhamatthaṃ atītamattho kapaṇaṃ rudāmi.
2978. “Đối với tôi, ‘Sa-môn,’ là vị có bản thân đã được công nhận, có bản thân đã được tu tập về tâm ý, và là đáng yêu quý đối với tôi. Tôi đã giải thích cho vị ấy, trong khi bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín. Với sự việc đã được trải qua, tôi khóc than một cách thảm thiết.”
10. Ðạo sĩ, theo ta, một bạn vàng,
Chuyên trì khổ hạnh, bậc hiền nhân,
Ẩn tình ta lộ, ta lầm lỗi,
Ta khóc, giờ đây, chính khổ thân!
2979. Na catthi satto amaro pathabyā paññāvidhā natthi na ninditabbā, saccena dhammena dhiyā damena alabbhamabyāharatī naro idha.
2979. “Ở trên trái đất, không có chúng sanh nào không chết.
Việc có được trí tuệ là không thể bị chê bai. Với sự chân thật, với công lý, với trí thông minh, với sự rèn luyện, con người thành tựu điều khó đạt được ở nơi này.
11. Nhân sinh trần thế phải lìa đời,
Thánh đạo cho con cháu phải soi,
Bằng tự điều thân, chân chánh hạnh,
Con người thành đạt đích cao vời.
2980. Mātā pitā paramā bandhavānaṃ nāssa tatiyo anukampakatthi, tesampi guyhaṃ paramaṃ na saṃse
mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2980. Mẹ và cha là tốt nhất trong số các thân quyến, không thể có người thứ ba nào là người có lòng thương xót, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.
12. Chẳng ai thân thiết vượt song thân,
Không kẻ thứ ba ái luyến bằng,
Song ẩn tình, người đừng tỏ lộ,
E rằng phản bội thật không tưởng!
2981. Mātāpitā bhaginībhātaro ca sahāyā vā yassa honti sapakkhā, tesampi guyhaṃ paramaṃ na saṃse
mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2981. Mẹ, cha, chị em gái, và anh em trai, các người cộng sự hay là những người cùng phe nhóm, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến họ.
13. Mẹ cha, quyến thuộc khắp xa gần,
Bạn hữu đồng minh, dẫu thiết thân!
Ẩn ý ngươi đừng nên tỏ lộ,
Về sau phản bội, phải ăn năn.
2982. Bhariyā ce purisaṃ vajjā komārī piyabhāṇinī puttarūpayasūpetā ñātisaṅghapurakkhatā, tassāpi guyhaṃ paramaṃ na saṃse mantassa bhedaṃ parisaṅkamāno.
2982. Nếu người vợ trẻ trung nói chuyện với chồng,, có lời nói đáng yêu, có sanh con trai, có sắc đẹp, có danh tiếng, được tập thể thân quyến ưu ái, trong khi hoài nghi sự hư hoại của chú thuật, cũng không nên bày tỏ điều tuyệt đối cần được giấu kín đến nàng.
14. Vợ hiền xinh đẹp, tuổi còn xuân,
Chia xẻ bầy con, đám bạn thân,
Song chớ tỏ bày điều bí ẩn,
E nàng phản bội, phải đề phòng.
2983. Na guyhamatthaṃ vivareyya rakkheyya naṃ yathā nidhiṃ, na hi pātukato sādhu guyhamattho pajānatā.
2983. Không nên bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín; nên bảo vệ nó như là của chôn giấu. Bởi vì, người có sự nhận thức làm rõ ràng ý nghĩa cần được giấu kín là không tốt đẹp.
15. Ðừng ai đem chuyện kín phơi ra,
Phải giữ như kho báu của nhà,
Việc tiết lộ ra điều bí mật,
Hiền nhân chẳng muốn ngợi khen mà.
2984. Thiyā guyhaṃ na saṃseyya amittassa ca paṇḍito, yo cāmisena saṃhīro hadayattheno ca yo naro.
2984. Vị sáng suốt không nên bày tỏ điều bí mật cho phụ nữ, cho kẻ đối nghịch, là hạng có thể bị mua chuộc bởi tài vật và hạng người giả vờ kết thân.
16. Bậc trí không nên lộ tấc lòng,
Với cừu nhân hoặc với hồng quần,
Những người nô lệ lòng tham dục,
Bọn chúng tỏ ra lũ bốc đồng.
2985. Guyhamatthamasambuddhaṃ sambodhayati yo naro, mantabhedabhayā tassa dāsabhūto titikkhati.
2985. Người nào cho biết ý nghĩa cần được giấu kín đến kẻ không khôn ngoan do nỗi sợ hãi về chú thuật hay về sự đổ vỡ quan hệ đối với kẻ ấy, thì phải chịu đựng thân phận làm nô lệ (cho kẻ biết được ấy).
17. Ai hé lộ ra một ẩn tình
Cho người không có trí thông minh,
Sợ lòng tin bị người làm phản,
Phải chịu người kia khống chế mình.
2986. Yāvanto purisassatthaṃ guyhaṃ jānanti mantitaṃ, tāvanto tassa ubbegā tasmā guyhaṃ na vissaje.
2986. Càng có nhiều kẻ biết được ý nghĩa cần được giấu kín của một người (do) đã được thổ lộ, thì càng có nhiều kích động đối với người ấy; vì thế, không nên thố lộ điều bí mật.
18. Những người biết được chuyện riêng tư
Mà bạn chẳng nên để lộ ra,
Sẽ khiến bất an tâm trí bạn,
Vậy đừng tiết lộ chuyện riêng mà!
2987. Vivicca bhāseyya divā rahassaṃ rattiṃ giraṃ nātivelaṃ pamuñce, upassutikā hi suṇanti mantaṃ
tasmā manto khippamupeti bhedaṃ.
2987. Vào ban ngày, nên tách ly rồi mới nói điều bí mật, vào ban đêm không nên thốt ra lời vượt quá thời gian (hạn định).
Bởi vì những kẻ nghe lén lắng nghe điều thố lộ; vì thế, điều thố lộ mau chóng đi đến việc rò rỉ.
19. Ban ngày chỉ có một mình ta,
Cứ bạo gan nêu chuyện kín ra,
Song giữa đêm khuya trời vắng vẻ,
Ðừng liều lĩnh lộ chuyện riêng mà.
20. Bởi vì chắc chắn ở bên lưng,
Cỏ kẻ phản ta đứng sẵn sàng,
Lời thoáng đưa đều nghe lọt cả:
Vậy đừng tin chúng: đệ cầu mong!
2988. Yathāpi assa nagaraṃ mahantaṃ advārakaṃ āyasaṃ bhaddasālaṃ, samantakhātāparikhāupetaṃ
evampi me te idha guyhamantā.
2988. Cũng giống như thành phố Bhaddasālā rộng lớn, làm bằng sắt, không có cửa ra vào, được trang bị với các hào nước được đào ở xung quanh, cũng tương tự như vậy, các chú thuật cần được giấu kín ấy của tôi là ở nơi này.
21. Như cổ thành vây bọc tứ phương,
Với hào, cọc sắt, đã coi thường
Quân thù xâm nhập vào Tiên giới,
Bí mật người khôn giữ kín luôn.
2989. Ye guyhamantā avikinṇavācā daḷhā sadatthesu narā dujivha, ārā amittā byavajanti tehi āsīvisāvāriva sattasaṅghā.
2989. Này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, những người nào có chú thuật cần được giấu kín, không có lời nói lung tung, kiên quyết trong các mục đích của mình, các kẻ thù nghịch lánh ra những người ấy, tựa như các hạng chúng sanh lánh xa những con rắn độc.”
22. Những người dù vội vã nhanh lời,
Chuyện kín vẫn không hé hở môi,
Mà quyết giữ mình luôn vững chắc,
Thật lòng chân chánh, đấy là người
Cừu nhân phải tránh, như đi trốn
Lúc rắn độc đang đuổi chạy dài!
2990. Hitvā gharaṃ pabbajito acelo naggo muṇḍo vicarati ghāsahetu, tamhi nu kho vivariṃ guyhavatthaṃ
atthā ca dhammā ca apāgatamhā.
2990. “Sau khi từ bỏ gia đình, vị xuất gia, lõa thể, trần truồng, đầu cạo, đi lại đó đây vì nguyên nhân vật thực. Quả thật, tôi đã bộc lộ ý nghĩa cần được giấu kín cho vị ấy. Chúng tôi đã bị lìa khỏi mục đích và công lý.
23. Lõa thể, cạo đầu, gã xuất gia,
Lang thang khất thực khắp quê nhà,
Ôi! Ðem bí mật khai cùng gã,
Phúc đức tan tành, số phận ta!
2991. Kathaṃ karo hoti supaṇṇarāja kiṃsīlo kena vatena vattaṃ, samaṇo caraṃ hitvā mamāyitāni
kathaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ.
2991. Này linh điểu chúa, vị Sa-môn là người có hành động thế nào, có giới cấm gì, đang thi hành phận sự gì? Trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm thế nào đi đến vị thế cõi trời?”
24. Giới hạnh nào, tu sĩ phải trì,
Phát nguyền nào, tránh lỗi lầm chi?
Làm sao thoát ác hành vây hãm,
Ðể đạt thiên cung cuối hạn kỳ?
2992. Hiriyā titikkhāya damena khantiyā akkodhano pesuniyaṃ pahāya, samaṇo caraṃ hitvā mamāyitāni
evaṃkaro saggamupeti ṭhānaṃ.
2992. “Với sự hổ thẹn (tội lỗi), với sự chịu đựng, với sự thuần hóa, với sự nhẫn nại, không giận dữ, đã dứt bỏ việc nói đâm thọc, trong khi thực hành hạnh xuất gia sau khi đã từ bỏ các vật thuộc sở hữu, vị Sa-môn làm như vậy đi đến vị thế cõi trời.”
25. Bền lòng, kham nhẫn, tự điều thân,
Vứt bỏ vọng ngôn, với hận sân,
Tu sĩ đoạn trừ bao tội lỗi,
Sau cùng đạt đến cảnh thiên cung.
2993. Mātā ca puttaṃ taruṇaṃ tanūjaṃ sampassa taṃ sabbagattaṃ phareti, evampi me tvaṃ pāturahu dijinda
mātāva puttaṃ anukampamāno.
2993. “Ví như người mẹ, trong khi nhìn đứa con trai thơ dại được sanh ra từ cơ thể của mình, khiến toàn thân rung động, cũng tương tự như vậy, này chúa của loài chim, ngài hãy thể hiện với tôi giống như người mẹ đang thương xót đứa con trai.”
26. Như trẻ sơ sinh, mẹ ngắm nhìn,
Khắp người rung động, thú thần tiên,
Ðiểu vương cũng vậy, xin ban bố,
Từ ái đàn con, đấng mẹ hiền!
2994. Handajja tvaṃ mucca vadhā dujivha tayo hi puttā nahi añño atthi, antevāsī dinnako atrajo ca
rajassu puttaññataro me ahosi.
2994. “Nào, này (rắn chúa) loài có hai lưỡi, hôm nay hãy để ngài thoát khỏi sự giết hại. Bởi vì có ba loại con: học trò, con nuôi, và con ruột, không có loại (thứ tư) nào khác. Ngài hãy vui mừng! Một người con khác nữa đã có thêm cho tôi.”
27. Chúa Rồng, ta thả bạn bây giờ
Thoát chết, cho ngài được tự do
Trong các bầy con này, chỉ có:
Con nuôi, con ruột, học trò ta,
Là ba trẻ hưởng nhiều sung sướng,
Quả thật ngài là một giữa ba!
2995. Icceva vākyaṃ visajjī supaṇṇob humyaṃ patiṭṭhāya dijo dujivhaṃ, muttajja tvaṃ sabbabhayātivatto thalūdake hohi mayābhigutto.
2995. Sau khi nói lời nói y như thế, con linh điểu đã phóng thích (con rắn). Con chim đã đặt con rắn chúa xuống ở mặt đất (nói rằng): “Hôm nay, ngài đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Ngài hãy ở trên đất liền và ở trong nước. Ngài được tôi bảo vệ.”
28. Nói vậy xong, Chim chúa thả ngay
Kẻ thù, đáp nhẹ địa cầu này:
Nay ta giải phóng, mau đi kiếm
An trú xa nơi hiểm họa đầy,
Dù bạn lên bờ hay dưới nước,
Ta nguyền phòng hộ kỹ từ rày.
2996. Ātaṅkinaṃ yathā kusalo bhisakko pipāsitānaṃ rahadova sīto, vesmaṃ yathā himasītaṭṭitānaṃ
evampi te saraṇamahaṃ bhavāmi.
2996. “Giống như người thầy thuốc thiện xảo cho các bệnh nhân, tựa như hồ nước mát lạnh cho những người bị khát nước, giống như chỗ trú ngụ cho những người bị hành hạ bởi tuyết lạnh, cũng tương tự như vậy, tôi có sự nương tựa ở ngài.”
29. Như lương y có đủ tài năng,
Con bệnh hiểm nghèo đã chữa xong,
Như nước mát trong hồ giải khát
Cho bao người được thỏa thuê lòng,
Như nhà trú ẩn trời băng giá
Ta, chốn bạn nhờ, lúc bại vong.
2997. Sandhiṃ katvā amittena aṇḍajena jalābuja,
vivariya dāṭhaṃ sayasi kuto te bhayamāgataṃ.
2997. “Này loài thai sanh, sau khi đã thực hiện sự liên kết với kẻ thù là loài noãn sanh, ngài nhe răng nanh và nằm sát xuống, vậy sự nguy hiểm của ngài từ đâu đến?”30. Kìa, Long vương trước đã làm lành,
Nay bỗng dưng ngài há bộ nanh,
Với địch thủ ngài trong thuở trước,
Vì đâu ngài phách lạc hồn kinh?
2998. Saṅketheva amittamhi mittasmimpi na vissase,
abhayā bhayamuppannaṃ api mūlāni kantati.
2998. “Nên nghi ngại kẻ thù, cũng không nên tin tưởng người bạn, từ chỗ không nguy hiểm, sự nguy hiểm được sanh lên, thậm chí còn cắt đứt các gốc rễ (của sự sống).
31. Phải luôn nghi ngại kẻ thù mình,
Chớ quá tin ngay bạn chí tình,
Lòng cả tin sinh niềm sợ hãi,
Giết ngươi từ gốc đến đầu cành.
2999. Kathannu vissase tyamhi yenāsi kalaho kato, niccayattena ṭhātabbaṃ so disabbhi na rajjati.
2999. Làm thế nào có thể tin tưởng vào ngài, mà với ngài có sự cãi cọ đã được tạo ra? Người nào tồn tại với sự thường xuyên sẵn sàng, người ấy không bị quyến luyến với các kẻ thù (của mình).
32. Sao đặt lòng tin tưởng một người
Trước kia ta đã cãi tranh rồi?
Hãy lo phòng hộ mình cho kỹ,
Yêu kẻ địch à? – Chẳng có ai!
3000. Vissāsaye na ca naṃ vissaseyya asaṅkito ca saṅkito bhaveyya, tathā tathā viññū parakkameyya
yathā yathā bhāvaṃ paro na jaññā.
3000. Nên làm cho kẻ khác tin tưởng mình, và không nên tin tưởng kẻ ấy. Không nên bị kẻ khác nghi ngờ và kẻ khác nên bị mình nghi ngờ. Người hiểu biết nên nỗ lực như thế ấy để kẻ khác không có thể biết được bản chất của mình.”
33. Hãy gây tin tưởng khắp nơi nơi,
Song chớ tin vào bất cứ ai,
Ðừng để người nghi ngờ chính bạn,
Song tâm hướng đến mối nghi hoài;
Người nào thực sự là người trí,
Cần phải hết lòng gắng sức thôi,
Bản tính mình không hề để lộ,
Phơi bày ra trước mặt người đời!
3001. Te devavaṇṇā sukhumālarūpā ubho samā sujayo puññakkhandhā, upāgamuṃ kādambiyaṃ acelaṃ.
missībhūtā assavāhāva nāgā.
3001. Họ có vẻ đẹp Thiên thần, có dáng vóc thanh nhã. Cả hai tương đương nhau về sự ngay thẳng và các tích lũy về phước thiện. Họ kết hợp bản thể với nhau, tựa như hai con voi kéo cỗ xe ngựa. Họ đã đi đến gặp vị lõa thể Kādambiya.
34. Này thấy xứng đôi bạn thánh thần,
Toát ra dáng điệu tịnh tham tâm,
Như đôi tuấn mã cùng cương chạy,
Ðến chốn nhàn cư của Thánh nhân.
3002. Tato have paṇḍarako acelaṃ sayamevupāgamma idaṃ avoca, muttajjahaṃ sabbabhayātivatto na hi nūna tuyhaṃ manaso piyamhā.
3002. Thật vậy, sau đó, rồng chúa Paṇḍaraka đích thân đi đến gặp vị lõa thể và đã nói điều này: “Hôm nay, tôi đã được tự do, đã qua khỏi tất cả hiểm nguy. Chúng tôi, quả thật, đã không yêu thích gì tâm ý của ông.”
35. Long vương đi thẳng đến thầy tu,
Rồng chúa báo ngay với kẻ thù:
“Phải biết hôm nay ta thoát nạn,
Không nhờ tình Thánh giả dành cho!”
3003. Piyo hi me āsi supaṇṇarājā asaṃsayaṃ paṇḍarakena saccaṃ, so rāgaratto ca akāsiṃ etaṃ pāpaṃ kammaṃ sampajāno na mohā.
3003. “Bởi vì linh điểu chúa đã được ta yêu mến hơn so với rồng chúa Paṇḍaraka; điều ấy là sự thật, không có hoài nghi. Và bị đắm say ái luyến, ta đây đã làm hành động xấu xa ấy, trong khi biết rõ, không phải do si mê.”
36. Trịnh trọng ta thề trước Ðiểu vương,
Với ngài, ta nặng trĩu tình thương,
Hơn bao giờ cả, song rung cảm
Vì mối tình thân với đại bàng,
Ta đã sai lầm vì cố ý,
Chớ không do bởi tính ngông cuồng!
3004. Na me piyaṃ appiyaṃ vāpi hoti sampassato lokamimaṃ parañca, susaññatānaṃ hi viyañjanena asaññato lokamimaṃ carāsi.
3004. “Không có việc yêu mến tôi hay không yêu mến tôi đối với vị đang xem xét đời này và đời sau. Bởi vì, so với điểm đặc trưng của các vị đã khéo tự chế ngự, ông sống ở thế gian này, không tự chế ngự.
37. Người thấy đời này lẫn kiếp sau
Chẳng hề thương ghét nhọc lòng đâu,
Tu hành đội lốt, ngài mong dấu
Hành động phi nhân, ngược thánh bào.
3005. Ariyāvakāsosi anariyo cāsi asaññato saññatasannikāso, kaṇhābhijātikosi anariyarūpo pāpaṃ bahuṃ duccaritaṃ acāri.
3005. Ông giả vờ là Thánh nhân, và không phải là Thánh nhân. Không tự chế ngự, ông làm như là đã được tự chế ngự. Ông là người có bẩm tánh đen tối, có bản chất không thánh thiện. Ông đã làm nhiều hành động ác độc, xấu xa.
38. Nhuốm đầy ty tiện, dáng cao siêu,
Khoác áo tu, lòng chẳng tự điều,
Bản tính chứa tầm tư hạ liệt,
Ngài chuyên tạo ác nghiệp bao nhiêu!
3006. Aduṭṭhassa tuvaṃ dubbhī dubbhī ca pisuno casi, etena saccavajjena muddhā te phalatu sattadhā.
3006. Này kẻ phản bội, ông là kẻ phản bội người không bị hư hỏng, và là kẻ nói đâm thọc. Do lời nói chân thật này, mong rằng cái đầu của ông hãy vỡ tan thành bảy mảnh.”
39. Chỉ điểm, dối lừa, muốn giết oan
Bạn lành vô tội, vậy ta mong
Nhờ đây Thề nguyện điều Chân thật:
Bảy mảnh, đầu ngài phải vỡ tan.
3007. Tasmā hi mittānaṃ na dubbhitabbaṃ mittadubbhā pāpiyo natthi añño, āsittasatto nihato pathabyā indassa vākyena hi saṃvaro hato ”ti.
3007. Chính vì thế, không nên phản bội các bạn bè. Không có người nào là ác độc hơn so với kẻ phản bội bạn bè. Con người đã rưới rắc (nọc độc) bị rơi vào trong trái đất. Chính vì lời nói của rồng chúa, mà kẻ (mạo nhận) thu thúc bị chết.
40. Vì thế ta nay nhắn nhủ rằng
Chớ bao giờ phản bội thân bằng
Còn gì tồi tệ hơn nhìn thấy
Một thứ bạn bè giả dối chăng?
Bị nuốt trôi vào lòng đất lạnh,
Kẻ mồm độc ấy ngã nhào lăn,
Và người khổ hạnh nay đành chết
Vì chính lời kia của chúa Rồng.
Paṇḍarakajātakaṃ.
***
Bổn sanh Rồng Chúa Paṇḍaraka. [518]
***
▪ 9. SAMBULĀJĀTAKAṂ – BỔN SANH HOÀNG HẬU SAMBULĀ
519. Chuyện Hoàng hậu Sambulà (Tiền thân Sambulà)
3008. Kā vedhamānā girikandarāya ekā tuvaṃ tiṭṭhasi saññatūru, puṭṭhāsi me pāṇipameyyamajjhe akkhāhi me nāmañca bandhave ca.
3008. “Hỡi cô nàng có cặp đùi kín đáo, nàng là ai, một mình đứng ở hang núi, run rẩy? Hỡi cô nàng có vòng eo có thể được đo bằng bàn tay, được ta hỏi, nàng hãy nói cho ta biết tên và các thân quyến.
1. Run rẩy nép mình dáng hãi kinh,
Ai đây đang đứng cạnh hang ghềnh,
Nói đi, thục nữ thân bồ liễu,
Quyến thuộc là ai, với quý danh?
3009. Obhāsayaṃ vanaṃ rammaṃ sīhavyagghanisevitaṃ, kā vā tvamasi kalyāṇi kassa vā tvaṃ sumajjhime, abhivādemi taṃ bhadde dānavāhaṃ namatthu te.
3009. Này mỹ nữ, nàng là ai, đang làm chói sáng khu rừng xinh đẹp, nơi được lai vãng bởi loài sư tử và loài cọp? Này cô nàng có vòng eo xinh xắn, nàng thuộc về ai? Này người nữ hiền thục, ta xin thi lễ với nàng. Ta là loài A-tu-la, xin kính lễ nàng.”
2. Nương tử là ai, đẹp rỡ ràng,
Ðâu là dòng giống của nhà nàng,
Khiến nàng chiếu rực khu rừng sáng,
Chốn lạc cư muôn loại thú hoang?
Yêu quỷ là ta đầy kính cẩn
Nghiêng mình, bái phục trước tôn nhan!
3010. Yo putto kāsirājassa sotthisenoti naṃ vidū, tassāhaṃ sambulā bhariyā evaṃ jānāhi dānava, abhivādemi bhaddante sambulāhaṃ namatthu te.
3010. “Người ấy là con trai của đức vua xứ Kāsi. Người ta biết chàng với tên Sotthisena. Thiếp là Sambulā, vợ của người ấy. Thưa vị A-tu-la, ngài hãy biết như thế. Thưa bậc tôn đức, thiếp xin thi lễ với ngài. Thiếp là Sambulā, xin kính lễ ngài.
3. Thái tử Sot-thi kế vị ngai,
Xứ Kà-si, hãy biết như vầy,
Ta là vương hậu hoàng nam ấy,
Thường gọi Sam-bu chính hiệu này.
3011. Vedehaputto bhaddante vane vasati āturo, tamahaṃ rogasammattaṃ ekā ekaṃ upaṭṭhahiṃ.
3011. Thưa bậc tôn đức, người con trai xứ Vedeha bị bệnh, sống ở trong rừng. Một mình thiếp đã phục vụ chỉ mỗi chàng, trong lúc chàng đang bị hành hạ bởi căn bệnh.
4. Vương tử Vi-đề đang ốm đau,
Khổ thân mê loạn ở rừng sâu,
Mình ta chăm sóc chàng nằm liệt,
Không thế, chắc chàng phải chết mau!
3012. Ahañca vanamuñchāya madhumaṃsaṃ migāvilaṃ, yadā harāmi taṃ bhakkho tassa nūnajja nādhati.
3012. Và thiếp đã thu nhặt ở trong rừng miếng thịt ngon, là vật ăn còn thừa lại của thú rừng. Vật thiếp mang về ấy, thật vậy, sẽ là thức ăn đáp ứng nhu cầu của chàng ngày hôm nay.”
5. Ðây miếng thịt nai thật ngọt ngon,
Ta vừa kiếm được chốn rừng hoang,
Ðem về dâng chúa công ta đó,
Giờ bởi thiếu ăn đã mỏi mòn!
3013. Kiṃ vane rājaputtena āturena karissasi, sambule pariciṇṇena ahaṃ bhattā bhavāmi te.
3013. “Nàng sẽ làm gì trong khu rừng với vị hoàng tử bị bệnh đang được chăm sóc? Này nàng Sambulā, hãy để ta trở thành người chồng của nàng.”
6. Chúa công bệnh hoạn ích gì chăng?
Ngài chẳng cần vương hậu, hỡi nàng,
Mà chỉ cần người nuôi bảo hộ,
Ta mong chiếm địa vị ông hoàng!
3014. Sokaṭṭāya durattāya kiṃ rūpaṃ vijjate mama, aññaṃ pariyesa bhaddante abhirūpataraṃ mayā.
3014. “Do trạng thái sầu muộn, do bản thân bị khốn khổ, sắc đẹp gì được tìm thấy ở thiếp? Thưa bậc tôn đức, ngài hãy tìm kiếm người nữ khác xinh đẹp hơn thiếp.”
7. Lòng ta mòn mỏi với ưu sầu,
Khốn khổ bơ vơ, đẹp chẳng cầu,
Nếu quỷ vương tìm nương tử mới,
Hãy cầu nàng khác đẹp dường nào!
3015. Ehimaṃ girimāruyha bhariyā mayhaṃ catussatā, tāsaṃ tvaṃ pavarā hohi sabbakāmasamiddhinī.
3015. “Nàng hãy đến, hãy bước lên ngọn núi này. Ta có bốn trăm người vợ. Nàng hãy là người nữ cao quý trong số các nàng ấy; nàng có sự thành tựu tất cả các dục.
8. Thê thiếp bốn trăm sẵn của ta
Tôn vinh lầu các ở đồi xa,
Xin nàng chiếu cố, ngôi cao ngự,
Cho thỏa bao nguyền ước thiết tha.
3016. Nūna tārakavaṇṇābhe yaṅkiñci manasicchasi, sabbantaṃ pacuraṃ mayhaṃ ramassujja mayā saha.
3016. Thật vậy, này người nữ có ánh sáng như màu sắc của các vì sao, bất cứ vật gì mà nàng mong muốn ở trong tâm, mọi thứ ấy của ta đều dồi dào. Hôm nay, nàng hãy vui sướng cùng với ta.
9. Hỡi mỹ nhân tươi sáng ánh vàng,
Những gì nàng quý chuộng cho nàng,
Ta đều ban tặng, xin mời đến,
Cùng ta tận hưởng thú trần gian.
3017. No ce tuvaṃ maheseyyaṃ sambule kārayisassi, alaṃ tvaṃ pātarāsāya maññe bhakkhā bhavissasi.
3017. Này nàng Sambulā, nếu nàng không chịu làm hoàng hậu, ta nghĩ rằng nàng đương nhiên sẽ là thức ăn cho bữa ăn sáng.
10. Nếu chối từ làm vợ quỷ vương,
Hiển nhiên nàng hóa miếng mồi ngon
Cho ta thọ dụng hôm nay đấy,
Ðể lót lòng ta đã nhịn cơm.
3018. Tañca sattajaṭo luddo kaḷāro purisādako, vane nāthaṃ apassantiṃ sambulaṃ aggahī bhuje.
3018. Và trong lúc nàng ấy không tìm thấy người bảo hộ ở khu rừng, gã ăn thịt người có bảy búi tóc, hung dữ, răng hô đã nắm lấy Sambulā ở cánh tay.
11. Ác quỷ mày râu rậm bảy chòm,
Khiến cho người thất đảm kinh hoàng,
Thấy nàng lạc lỏng bơ vơ bước,
Liền nắm chặt tay ấy của nàng.
3019. Adhipannā pisācena luddenāmisacakkhunā, sā ca sattuvasampattā patimevānusocati.
3019. Và bị bắt giữ bởi gã quỷ sứ hung dữ, quan tâm về vật chất, bị rơi vào sự khống chế của kẻ thù, nàng ấy lo âu chỉ mỗi người chồng.
12. Bị cầm giam bởi quỷ hung tàn,
Cừu địch nàng kia, ác dục tràn,
Nàng chỉ khóc thương chàng vắng mặt,
Chẳng hề quên nỗi khó riêng chàng.
3020. Na me idaṃ tathā dukkhaṃ yaṃ maṃ khādeyya rakkhaso, yañca me ayyaputtassa mano hessati aññathā.
3020. “Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.13. Ta chẳng buồn vì số phận ta,
Làm mồi cho quỷ ác căm thù,
Song vì tình trượng phu tôn quý,
Ly biệt ta, đành phải héo khô.
3021. Na santi devā pavasanti nūna na hi nūna santi idha lokapālā, sahasā karontānaṃ asaññatānaṃ na hi nūna santi paṭisedhitāro.
3021. Chư Thiên không hiện hữu, chắc chắn các ngài sống ở nơi khác! Chắc chắn các bậc hộ trì thế gian không có ở nơi này! Chắc chắn không có các vị ngăn chặn những kẻ không tự kiềm chế đang hành động bằng bạo lực!”
14. Chư thần đi vắng cả rồi chăng?
Chẳng vị nào cai quản thế gian
Ðể trấn áp hành vi sỉ nhục,
Cản ngăn điều phóng đãng dâm loàn!
3022. Itthīnamesā pavarā yasassinī santā samā aggirivuggatejā, tañce tuvaṃ rakkhasādesi kaññaṃ muddhā ca hi sattadhā te phaleyya mā tvaṃ dahi muñca patibbatā sā.
3022. “Trong số những người phụ nữ, nàng ấy là cao quý, có danh tiếng, điềm đạm, bình lặng, có năng lực nổi trội tựa như ngọn lửa. Này quỷ sứ, nếu ngươi ăn thịt người thiếu nữ ấy, cái đầu của ngươi có thể vỡ tan thành bảy mảnh. Ngươi chớ có thiêu đốt nàng. Ngươi hãy trả tự do cho người vợ chung thủy ấy.”
15. Giữa đám quần đệ nhất danh,
Chính nàng toàn hảo, trí thông minh,
Khác nào ngọn lửa đang bừng sáng,
Ví thử ngươi ăn thịt gái lành,
Ác quỷ, đầu ngươi liền vỡ nát,
Thành ra bảy mảnh phải tan tành.
Vậy đừng làm hại nàng, nên thả,
Nàng, vợ hiền dâng hiến trọn mình.
3023. Sā ca assamamāgañchi pamuttā purisādakā, nīḷaṃ phalinasakuṇīva gatasiṅgaṃva ālayaṃ.
3023. Được thoát khỏi kẻ ăn thịt người, nàng ấy đã đi về lại khu ẩn cư, tựa như con chim mẹ tha mồi về tổ, về chỗ trú ngụ vắng bóng các chim con.
16. Thoát quỷ kia, nàng vội lại nhà,
Như chim về thấy chết con thơ,
Hay bò bị cướp bê con dại,
Than khóc nhìn hang ổ trống trơ.
3024. Sā tattha paridevesi rājaputtī yasassinī, sambulā utumattakkhā vane nāthaṃ apassatī.
3024. Tại nơi ấy, nàng công chúa danh tiếng Sambulā ấy, hai mắt khờ dại, trong khi không nhìn thấy người chồng ở trong rừng, đã than khóc rằng:
17. Cũng vậy, Sam-bu tiếng tốt vang,
Hoàng phi liền cất giọng kêu than,
Thất thần, hoảng hốt, bơ vơ quá,
Ðơn độc, vô phương giữa núi ngàn:
3025. Samaṇe brāhmaṇe vande sampannacaraṇe ise, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3025. “Thiếp xin đảnh lễ các vị Sa-môn, các vị Bà-la-môn, các vị ẩn sĩ đầy đủ đức hạnh. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.
18. “Tiện thiếp xin quỳ lạy Ðạo sư,
La-môn, hiền thánh trí nhân từ,
Bơ vơ, lạc lỏng thay, thân thiếp
Chạy đến thần nhân để trú nhờ.
3026. Vande sīhe ca byagghe ca ye ca aññe vane migā, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3026. Thiếp xin đảnh lễ các loài sư tử, các loài cọp, và các con thú khác ở trong rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các vị.
19-20. Cọp beo, sư tử, chúa sơn lâm
,
Cùng các loài hoang thú ở giữa rừng,
Tiện thiếp xin chào mừng tất cả,
Cỏ cây, hoa lá mọc um tùm,
Xin chào rừng rậm màu xanh ngắt
Cùng núi cao dốc đứng chập chùng.
3027. Tiṇalatāni osadhyo pabbatāni vanāni ca, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3027. (Thiếp xin đảnh lễ các vị thần ngự ở) các giống cỏ, các dây leo, các cây thuốc, các ngọn núi, và các khu rừng. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ các ngài.
3028. Vande indīvarīsāmaṃ rattiṃ nakkhattamāliniṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saraṇaṃ gatā.
3028. Thiếp xin đảnh lễ (vị thần) đêm tối có màu sắc tựa như bông hoa súng, có vòng hoa là các vì tinh tú. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.
21. Tiện thiếp xin thi lễ Dạ thần,
Trên cao tinh tú điểm huy hoàng,
Ðêm dày tựa đóa sen xanh thẳm,
Nhuốm vẻ đậm đà nhất thế gian!
3029. Vande bhāgīrathiṃ gaṅgaṃ savantīnaṃ paṭiggahaṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saranaṃ gatā.
3029. Thiếp xin đảnh lễ thần sông Bhāgīrathī, nơi tiếp nhận các dòng nước. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.
22. Thiếp xin thi lễ cả sông Hằng,
Là mẹ hiền chung của suối sông,
Ở giữa loài người trên hạ giới,
Bha-gi-ra mỹ hiệu vang lừng.
3030. Vande ahaṃ pabbatarājaseṭṭhaṃ himavantaṃ siluccayaṃ, rājaputtaṃ apassantī tumhamhi saranaṃ gatā.
3030. Thiếp xin đảnh lễ thần núi đá Himavantu, ngọn núi chúa hạng nhất. Trong khi không nhìn thấy tướng công, thiếp đi đến nương nhờ ngài.”
23. Tiện thiếp xin chào đỉnh Tuyết Sơn,
Là vua ngự trị mọi sơn lâm,
Ðà chồng chất nhất cao hùng vĩ,
Vượt hẳn lên toàn cảnh thế gian.
3031. Atisāyaṃ vatāgañchi rājaputti yassasini, kenanujja samāgañchi ko te piyataro mayā.
3031. “Này nàng công chúa danh tiếng, thật sự nàng đã trở về quá tối. Vậy hôm nay, nàng đã đi đến với ai? Ai được nàng yêu thương hơn ta?”
24. Này quý phi danh tiếng vọng vang,
Sao nàng về muộn quá chiều tàn?
Tình lang yêu dấu nào đâu hẳn
Ðã giữ nàng lâu hóa trễ tràng?
3032. Idaṃ khohaṃ tadavocaṃ gahitā tena sattunā, na me idaṃ tathā dukkhaṃ yaṃ maṃ khādeyya rakkhaso, yañca me ayyaputtassa mano hessati aññathā.
3032. “Bị bắt giữ bởi kẻ thù ấy, quả thật khi ấy thiếp đã có nói điều này: ‘Sự khổ sở như thế này của thiếp không phải là việc quỷ sứ có thể ăn thịt thiếp, mà là việc tướng công của thiếp sẽ có ý nghĩ theo cách khác.’”
25. Bị cừu địch bắt, nặng sầu tư,
Thiếp nói lời cùng quỷ Dạ-xoa:
“Ta chẳng buồn đau vì số phận
Làm mồi cho ác quỷ tinh ma,
Song vì tình trượng phu tôn quý
Ly biệt ta, đành phải héo khô”.
3033. Corīnaṃ bahubuddhīnaṃ yāsu saccaṃ sudullabhaṃ, thīnaṃ bhāvo durājāno macchassevodake gataṃ.
3033. “Đối với các nữ đạo tặc có nhiều trí thông minh, sự chân thật ở các nàng này là điều khó đạt được. Bản tánh của các người nữ là khó hiểu, tựa như đường đi của loài cá ở trong nước.”
26. Các nàng ngọc nữ quá tinh khôn,
Thật hiếm khi tìm được thật chơn,
Cung cách nữ nhân làm rối trí,
Như đường cá lội giữa trùng dương!
3034. Tathā maṃ saccaṃ pāletu pālayissati ce mamaṃ, yathāhaṃ nābhijānāmi aññaṃ piyataraṃ tayā, etena saccavajjena vyādhi te vūpasammatu.
3034. “Thiếp biết chắc là không có người đàn ông nào khác được thiếp yêu thương hơn chàng. Nếu lời nói như thế của thiếp là sự thật, xin hãy hộ trì cho thiếp, và sẽ hộ trì cho thiếp trong tương lai. Do lời nói chân thật này, mong rằng bệnh của chàng được lặng yên.”
27. Ước mong Chân lý, chốn nương thân,
Thiếp chẳng yêu ai khác Chúa công,
Thiếp nguyện cầu xin nhờ Nói Thật
Bệnh chàng nay được chữa lành chăng?
3035. Ye kuñjarā sattasatā uḷārā rakkhanti rattindivaṃ uyyutāvudhā, dhanuggahānañca satāni soḷasa kathaṃ vidhe passasi bhadde sattavo.
3035. “Bảy trăm con voi xuất sắc,
có vũ khí sẵn sàng, bảo vệ ngày đêm,
và một ngàn sáu trăm cung thủ.
Này thục nữ, bằng cách nào con nhìn thấy những kẻ thù?”
28. Bảy trăm vương tượng trực bên mình,
Phòng hộ sẵn sàng khởi chiến binh,
Thiện xạ hàng trăm ngừa hiểm họa,
Ðâu cừu nhân đến khiến hồn kinh?
3036. Alaṅkatāyo padumuttarattacā virāgitā passati haṃsagaggarā, tāsaṃ suṇitvā mitagītavāditaṃ na dāni me tāta tathā yathā pure.
3036. “Chàng nhìn xem các nữ nhân đã được trang điểm, có làn da tuyệt mỹ màu hoa sen, có vòng eo thon, có giọng nói ngọt ngào như chim thiên nga, sau khi lắng nghe lời ca tiếng nhạc đã được chọn lọc của các nàng ấy, giờ đây, tâu phụ hoàng, chàng đối với con không còn như là trước đây.
29. Chàng yêu mỹ nữ tựa liên hoa,
Giọng điệu thiên nga cất tiếng thưa,
Rung động lòng chàng say đắm đuối,
Khi chàng nghe chúng nhịp nhàng ca,
Thiếp không còn ngự trong tâm tưởng,
Tình cảm chàng, như một thuở xưa!
3037. Suvaṇṇasaṅkaccadharā suviggahā alaṅkatā mānusiyaccharūpamā, senopiyā tāta aninditaṅgiyo khattiyakaññā paṭilobhayanti naṃ.
3037. Các nàng ấy có thân hình xinh đẹp, mang thắt lưng bằng vàng, đã được trang điểm, sánh tựa tiên nữ, là những người yêu dấu của Sotthisena, có cơ thể không bị chê bai, thưa cha, các công nương dòng Sát-đế-lỵ quyến rủ chàng.
30. Nữ nhân dáng đẹp tựa thiên nga,
Trang điểm toàn châu báu sáng lòa,
Tuyệt sắc cung tần nằm yểu điệu,
Mê hồn quyến rủ mắt vương gia!
3038. Sace ahaṃ tāta tathā yathā pure patiṃ tamuñchāya punā vane bhare, sammānaye maṃ na ca maṃ vimānaye itopi me tāta tato varaṃ siyā.
3038. Thưa cha, nếu con có thể cưu mang người chồng ấy bằng cách thu nhặt ở trong rừng lần nữa như là trước đây, mà chàng có thể tôn trọng con và không xem thường con, thưa cha, vì điều ấy, đối với con khu rừng ấy còn quý giá hơn cả nơi này.
31. Mong lần nữa lạc bước rừng hoang,
Kiếm mỗi bữa ăn đỡ dạ chàng,
Thiếp sẽ được chàng yêu quý lại,
Rừng xanh ngự trị bỏ ngai vàng!
3039. Yamannapāne vipulasmi ohite nārī vimaṭṭhābharaṇā alaṅkatā, sabbaṅgupetā patino ca appiyā abajjha tassā maraṇaṃ tato varaṃ.
3039. Người phụ nữ, khi được bố trí ở nơi dồi dào cơm ăn nước uống, có đồ trang sức bóng láng, đã được trang điểm, được đầy đủ mọi thứ, và không được chồng yêu thương, dầu không bị giam giữ, nhưng đối với người nữ ấy, cái chết là cao quý hơn so với việc kia.
32. Gấm vóc lụa là khoác nữ nhi,
Cao lương mỹ vị đủ tràn trề,
Diễm kiều, song nếu chàng không chuộng,
Thà kết lụa đào để chết đi!
3040. Api ce daḷiddā kapaṇā anāḷhiyā kaṭādutīyā patino ca sā piyā, sabbaṅgupetāyapi appiyāya ayameva seyyā kapaṇāpi yā piyā.
3040. Thậm chí, nếu người phụ nữ nghèo khó, khốn khổ, không thóc lúa, có manh chiếu làm bạn, và nàng ấy được chồng yêu thương; so với người phụ nữ được đầy đủ mọi thứ mà không được yêu thương, chính người phụ nữ khốn khổ được yêu thương này là tốt hơn.”
33. Gái nghèo khốn khổ ngủ giường rơm,
Nếu được yêu thương dưới mắt chồng,
Cũng hưởng một đôi niềm hạnh phúc,
Mà người chỉ thiếu tấm tình nồng
Không hề biết đến, dù đầy đủ
Tất cả mọi điều, tấu phụ vương!
3041. Sudullabhitthī purisassa yā hitā bhattitthiyā dullabho yo hito ca, hitā ca te sīlavatī ca bhariyā janinda dhammaṃ cara sambulāya.
3041. “Người phụ nữ có lợi ích đối với người nam là rất khó đạt được, và người chồng có lợi ích đối với người phụ nữ là khó đạt được. Người vợ của con là người nữ có lợi ích và có giới hạnh. Này vị chúa của loài người, hãy cư xử đúng pháp với Sambulā.”
34. Khó tìm được vợ chung tình,
Nam nhi tốt với vợ mình, khó sao,
Vương nhi đức hạnh dường nào,
Với chồng, nàng lại dạt dào tình thương.
Vậy giờ đây, hỡi quân vương,
Với Sambu, phải trọn đường thủy chung.
3042. Sace tuvaṃ vipule laddhabhoge issāvatiṇṇā maraṇaṃ upesi, ahañca te bhadde imā rājakaññā sabbeva te vacanakarā bhavāmā ”ti.
3042. “Này ái hậu, nếu trong lúc của cải đã đạt được dồi dào, mà nàng bị áp lực bởi lòng ganh tị và tìm đến cái chết, thì trẫm và các công chúa này là thuộc về nàng, hết thảy tất cả chúng tôi hãy là người làm theo lời nói của nàng.”
35. Hưởng đầy phúc lộc dồi dào,
Ái khanh vẫn cứ xanh xao héo mòn,
Vì lòng nặng trĩu ghen hờn,
Từ nay trẫm với phi tần cung nga,
Là người dưới trướng Sam-là,
Sẵn sàng tuân phục lệnh bà phán sai!
Sambulājātakaṃ.
***
Bổn sanh Hoàng Hậu Sambulā. [519]
***
▪ 10. GANDHATINDUKAJĀTAKAṂ – BỔN SANH THẦN CÂY TINDUKA
520. Chuyện vị thần cây Tindu (Tiền thân Gandatindu)
3043. Appamādo amatapadaṃ pamādo maccuno padaṃ, appamattā na mīyanti ye pamattā yathā matā.
3043. “Sự không xao lãng là đạo lộ Bất Tử (Niết Bàn), sự xao lãng là con đường đưa đến sự chết. Những người không xao lãng không chết, những người nào xao lãng giống như đã chết.
1. Lòng nhiệt tình là hướng Niết-bàn,
Buông lung thường dẫn đến vong thân,
Những người tỉnh giác không hề chết,
Phóng dật khác nào đã mạng vong.
3044. Madā pamādo jāyetha pamādā jāyate khayo, khayā ca dosā jāyanti mā mado bharatūsabha.
3044. Từ mê đắm, sanh ra xao lãng; từ xao lãng, sanh ra sự tiêu hoại; và từ sự tiêu hoại, sanh ra các tội lỗi. Tâu vị lãnh đạo tối cao, chớ có mê đắm.
2. Buông lung có gốc tự kiêu căng,
Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,
Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,
Ðoạn trừ phóng dật, hỡi Anh quân!
3045. Bahū hi khattiyā jīnā atthaṃ raṭṭhaṃ pamādino, athopi gāmino gāmā anāgārā agārino.
3045. Bởi vì nhiều vị Sát-đế-lỵ có sự xao lãng, đã đánh mất sự tiến thân và đất nước; cũng vậy, những người chủ làng đánh mất các ngôi làng, những người chủ nhà trở thành không nhà.
3. Người hùng phóng dật biết bao phen,
Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,
Ðiền chủ trở thành người thất lạc
Không nhà, trôi giạt, khổ triền miên.
3046. Khattiyassa pamattassa raṭṭhasmiṃ raṭṭhavaḍḍhana, sabbe bhogā vinassanti rañño taṃ vuccate aghaṃ.
3046. Tâu bậc làm hưng thịnh đất nước, tất cả của cải ở đất nước của vị Sát-đế-lỵ đã bị xao lãng đều bị tiêu tan; việc ấy gọi là sự bất hạnh của vị vua.
4. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,
Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,
Ví thử bạc vàng đều biến mất,
Chỉ còn ô nhục với ông hoàng!
3047. Nesa dhammo mahārāja ativelaṃ pamajjasi, iddhaṃ phītaṃ janapadaṃ corā viddhaṃsayanti naṃ.
3047. Tâu đại vương, việc ấy không phải là đúng pháp. Bệ hạ chớ xao lãng quá nhiều thời gian. Lũ trộm cướp phá hoại đất nước giàu có, phồn thịnh ấy.
5. Phi thời phóng dật, hỡi quân vương,
Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,
Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy
Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.
3048. Na te puttā bhavissanti na hiraññaṃ na dhāniyaṃ, raṭṭhe viluppamānamhi sabbabhogehi jīyasi.
3048. Bệ hạ sẽ không có con trai kế nghiệp, không có vàng, không có tài sản. Khi đất nước đang bị cướp bóc, bệ hạ bị mất mát mọi thứ của cải.
6. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,
Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,
Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,
Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.
3049. Sabbabhoga parijiṇṇaṃ rājānaṃ vāpi khattiyaṃ, ñātimittā suhajjā ca na taṃ maññanti māniyaṃ.
3049. Khi vị vua hoặc luôn cả vị Sát-đế-lỵ đã bị tiêu tán mọi thứ của cải, các thân quyến, bạn bè, và các thân hữu không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng.
7. Ông hoàng bị tước đoạt giang san
Với các kho châu báu, bạc vàng
Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,
Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.
3050. Hatthārohā anīkaṭṭhā rathikā pattikārakā, tamevamupajīvantā na taṃ maññanti māniyaṃ.
3050. Các viên quản tượng, các ngự lâm quân, các xa binh, và các bộ binh đang sống nương vào chính vị ấy, họ không nghĩ về vị ấy với sự tôn trọng.
8. Xe ngựa, quản xa, với vệ binh,
Lục quân lúc trước thật hùng anh,
Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,
Cũng chẳng còn vì nể, kính danh.
3051. Asaṃvihitakammantaṃ bālaṃ dummanti mantinaṃ, sirī jahati dummedhaṃ jiṇṇaṃva urago tacaṃ.
3051. Vinh quang từ bỏ kẻ có trí tồi, ngu si, có công việc không được sắp xếp, có sự cố vấn bởi kẻ cố vấn tồi, tựa như con rắn từ bỏ lớp da già cỗi.
9. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,
Bị lời tà dụ dỗ, sai đường,
Người ngu chóng mất vinh quang cũ
Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.
3052. Susaṃvihitakammantaṃ kāluṭṭhāyiṃ atanditaṃ, sabbe bhogābhivaḍḍhanti gāvo sausabhāmiva.
3052. Mọi thứ của cải tăng trưởng cho người có công việc khéo được sắp xếp, có sự thức dậy sớm, không biếng nhác, tựa như bầy bò có con bò mộng đầu đàn (sẽ phát triển đông đúc).
10. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,
Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,
Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,
Tài sản người kia lớn mãi hoài.
3053. Upassutiṃ mahārāja raṭṭhe janapade cara, tattha disvā ca sutvā ca tato taṃ paṭipajjasi.
3053. Tâu đại vương, bệ hạ hãy du hành ở đất nước, ở xứ sở cho việc nghe ngóng. Sau khi nhìn thấy và lắng nghe tại nơi ấy, kế đó, mong rằng bệ hạ hãy thực hành điều ấy.”
11. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,
Lắng nghe dân chúng nói bao lời:
Nhờ nghe, nhìn được điều Chân lý,
Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.
3054. Evaṃ vedetu pañcālo saṅgāme sarasamappito, yathāhamajja vedemi kaṇṭakena samappito.
3054. “Hôm nay, ta cảm thọ bị gai đâm như thế nào, thì vua Pañcāla hãy cảm thọ bị tên bắn ở chiến trường giống như vậy.”
12. Mong tên trúng ở chiến trường
Cho Pan-ca bạo chúa thương khóc đời,
Như ta có cớ kêu trời,
Thế này vì bị gai dài đâm da!
3055. Jiṇṇo dubbalacakkhūsi na rūpaṃ sādhu passasi, kiṃ tattha brahmadattassa yaṃ taṃ maggeyya kaṇṭako.
3055. “Ông già cả, mắt yếu, không nhìn thấy cảnh vật rõ ràng, nên cây gai mới đâm vào ông; trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”
13. Tôn ông nay tuổi đã già,
Và đôi mắt đã mù lòa, cho nên,
Chẳng công bằng để xét xem,
Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?
Chúa Brah-ma biết thế nào,
Khi chân ông bị gai cào đâm da?
3056. Bavhettha brahmadattassa yohaṃ maggasmi brāhmaṇa, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā.
3056. “Thưa vị Bà-la-môn, ở đây, việc tôi bị gai đâm có nhiều liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.
14. Hiển nhiên vì chúa Brah-ma
Cho nên mới khổ thân ta thế này!
Như dân cô thế thường hay
Bị đem chém giết vì bầy hại dân.
3057. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano.
3057. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.
15. Ban đêm bị trộm ăn phần,
Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền;
Ác nhân đầy rẫy toàn miền,
Khi bầy bạo chúa nắm quyền trong tay.
3058. Etādise bhaye tāta bhayaṭṭā tāva mānavā, nillenakāni kubbanti vane āhatva kaṇṭakaṃ.
3058. Tôn ông ơi, khi có sự sợ hãi như thế này, bị hành hạ vì sợ hãi, dân chúng tạo ra chỗ ẩn náu trong rừng, sau khi đã rải rắc gai nhọn (ở căn nhà của mình).”
16. Khổ đau vì sợ nỗi này,
Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,
Chung quanh nhà rải lung tung
Ðám gai để được yên phận mình!
3059. Kadāssu nāmayaṃ rājā brahmadatto marissati, yassa raṭṭhamhi jīyanti appatikā kumārikā.
3059. “Vậy cho đến khi nào ông vua Brahmadatta này sẽ chết? Ở trong đất nước của ông, các cô con gái tới tuổi già mà vẫn không chồng.”
17. Khi nào vua ấy chết đi?
Chao ôi, còn chúa trị vì non sông,
Các con lẻ bóng phòng không,
Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi!
3060. Dubbhāsitañhi te jammi anatthapadakovide, kuhiṃ rājā kumārīnaṃ bhattāraṃ pariyesati.
3060. “Ôi lời nói tầm xàm của bà! Này bà lão kém cỏi, không thông suốt chữ nghĩa, ở đâu mà đức vua tìm kiếm chồng cho các cô con gái?”
18. Xấu mồm vô ích, bà ơi!
Những lời bà mới kêu trời gào la,
Làm sao vua kiếm đâu ra
Trong làng cho mỗi gái tơ một chồng?
3061. Na me dubbhāsitaṃ brahme kovidatthapadā ahaṃ, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā.
3061. “Thưa vị Bà-la-môn, lão không có lời nói tầm xàm, lão là người có chữ nghĩa được thông suốt. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.
19. Lời ta chẳng phải ác ngôn,
Cũng không phải nói hoài công hão huyền;
Khi còn thất thế dân đen
Chịu đàn áp bởi lắm tên giết người:
3062. Rattiñca6 corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano, dujjīve dubbhare dāre kuto bhattā kumāriyo.
3062. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Khi cuộc sống khó nhọc, khó cấp dưỡng cho người vợ, thì chồng ở đâu cho cô con gái?”
20. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
Ác nhân đầy rẫy non sông,
Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài
Thời suy, bần nữ lắm người
Buồn tình chẳng kiếm được ai làm chồng!
3063. Evaṃ sayatu pañcālo saṅgāme sattiyā hato, yathāyaṃ kapaṇo seti hato phālena sāliyo.
3063. “Con bò khốn khổ Sāliya này bị đâm bởi lưỡi cày nằm xụi như thế nào, thì vua Pañcāla, bị đâm bởi cây thương ở chiến trường, hãy nằm đơ giống như vậy.”
21. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,
Như Sa-li ngã xuống đường,
Thương thay! Cày đụng bị thương nằm đờ!
3064. Adhammena tuvaṃ jamma brahmadattassa kujjhasi, yo tvaṃ sapasi rājānaṃ aparajjhitvāna attano.
3064. “Này ông lão kém cỏi, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách vô lý; sau khi gây ra lầm lỗi cho bản thân, lão lại nguyền rủa đức vua.”
22. Ngươi hờn giận chúa Brah-ma
Song ai có thấy đâu là nguyên do?
Vì ngươi phỉ báng đức vua,
Tội kia tất cả đều là của ngươi!
3065. Dhammena brahmadattassa ahaṃ kujjhāmi brāhmaṇa, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā.
3065. “Thưa vị Bà-la-môn, lão nổi giận với vua Brahmadatta một cách có lý lẽ. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.
23-24. Vì vua, ta cứ giận sôi,
Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay;
Dân đen thất thế như vầy,
Bị tàn sát bởi lắm tay giết người:
Ðêm nằm cho trộm làm mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!.
3066. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano.
3066. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.
3067. Sā nūna puna re pakkā vikāle bhattamāhari, bhattahāriṃ apekkhanto hato phālena sāliyo.
3067. Đúng vậy, người phụ nữ đã nấu lại lần nữa và đã mang lại bữa ăn trễ giờ. Trong khi ta trông ngóng nàng mang lại bữa ăn, con bò Sāliya đã bị thương tích bởi lưỡi cày.”
25. Gia nô phải nấu hai lần
Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,
Lúc đang há họng chờ nhà,
Bò ta bị đụng ắt là mạng toi!
3068. Evaṃ haññatu pañcālo saṅgāme asinā hato, yathāhamajja pahaṭo khīrañca me pavaṭṭitaṃ.
3068. “Hôm nay, ta đã bị bò đá và sữa của ta bị đổ tràn như thế nào, thì vua Pañcāla, bị gươm đâm ở chiến trường, hãy bị thương tích giống như vậy.”
26. Cầu Pan-ca chúa ngã lăn,
Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,
Như ta, bò đá lăn chiêng,
Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay!
3069. Yaṃ pasu khīraṃ chaḍḍeti pasupālañca hiṃsati, kiṃ tattha brahmadattassa yaṃ no garahate bhavaṃ.
3069. “Việc con thú làm đổ sữa và hãm hại người chăn thú, việc ông chê trách chúng tôi, trong việc ấy, điều gì liên quan đến vua Brahmadatta?”
27. Này, bò đá gậy thúc dai,
Hay là thùng sữa của người đổ ra,
Việc gì đến chúa Brah-ma,
Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?
3070. Gārayho brahme pañcālo brahmadattassa rājino, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā.
3070. “Thưa vị Bà-la-môn, vua Pañcāla thuộc hoàng tộc Brahmadatta là đáng bị chê trách. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.
28-29. Pan-ca chúa đáng trách thay
Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,
Dân lành cô thế thấy luôn
Bị tàn hại bởi những quân giết người:
Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!.
3071. Rattiñca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano.
3071. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức.
3072. Caṇḍā aṭanakā gāvī yaṃ pure na duhāmase, taṃ dāni ajja dohāma khīrakāmehupaddutā.
3072. Trước đây, chúng tôi không vắt sữa con bò cái thô tháo, hoang dã. Giờ đây, bị quấy rối bởi những đòi hỏi về sữa, hôm nay chúng tôi vắt sữa nó.”
30. Hung hăng là thứ bò rừng,
Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,Ta đành vắt sữa hôm nay,
Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng!
3073. Evaṃ kandatu pañcālo viputto vippasukkhatu, yathāyaṃ kapaṇā gāvī viputtā paridhāvati.
3073. “Con bò cái khốn khổ, mất bê con, chạy lung tung này như thế nào, thì vua Pañcāla, bị mất con, hãy than khóc, hãy héo khô giống như vậy.”
31. Cầu Pan-ca chúa héo mòn,
Hoài công than khóc mất con như vầy,
Bò kia quẩn trí thương thay,
Ði tìm bê nhỏ, người nay giết càn!
3074. Yaṃ pasu pasupālassa pabbhameyya raveyya vā, konīdha aparādhatthi brahmadattassa rājino.
3074. “Việc con thú đi lang thang hoặc kêu ầm ĩ đối với người chăn thú, trong việc này, có tội lỗi gì liên quan đến vua Brahmadatta?”
32. Khi bò trâu phải lạc đàn,
Muốn vơi nỗi khổ, khóc vang kêu gào.
Vậy thì duyên cớ làm sao
Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?
3075. Aparādho mahābrahme brahmadattassa rājino, arakkhitā jānapadā adhammabalinā hatā.
3075. “Thưa vị Bà-la-môn, có tội lỗi liên quan đến vua Brahmadatta. Dân chúng là không được bảo vệ, bị hành hạ bởi thuế má phi pháp.
33. Tội tình của chúa Bra-hma,
Việc này con thấy rõ ra rành rành:
Bơ vơ khốn đốn dân lành,
Vẫn thường bị bọn bạo hành giết tươi:
3076. Rattañca corā khādanti divā khādanti tuṇḍiyā, raṭṭhasmiṃ kūṭarājassa bahu adhammiko jano, kathaṃ no asikosatthā khīrapā haññate pajā.
3076. Và ban đêm, bọn cướp tước đoạt, ban ngày, lũ thuế vụ tước đoạt. Ở đất nước của vị vua ác độc, có nhiều người không đạo đức. Vậy làm thế nào mà con bê còn bú sữa bị giết chết vì mục đích làm bao gươm?”
34. Ban đêm bị trộm rình mồi,
Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần!
Ác nhân đầy rẫy non sông,
Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,
Cớ sao bê hãy còn non,
Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?
3077. Evaṃ khajjatu pañcālo hato yuddhe saputtako, yathāhamajja khajjāmi gāmakehi araññajo.
3077. “Hôm nay, là loài nhái sanh ra ở rừng, tôi bị ăn thịt bởi những con quạ sống ở trong làng như thế nào, thì vua Pañcāla, bị giết chết ở trận chiến cùng với con trai, hãy bị ăn thịt giống như vậy.”
35. Cầu Brah-ma chúa chết chùm,
Cùng bầy con cháu ở trong chiến trường,
Như ta nhái bén rừng hoang,
Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay!
3078. Na sabbabhūtesu vidhenti rakkhaṃ rājāno maṇḍūka manussaloke, nettāvatā rājā adhammacārī yā tādisaṃ jīvamadeyyuṃ dhaṅkā.
3078. “Này nhái, các vị vua ở thế giới loài người không xếp đặt sự bảo vệ cho tất cả các loài sinh vật. Với bấy nhiêu đó, không thể gọi đức vua là người thực hành phi pháp trong việc các con quạ ăn thịt những con nhái các ngươi đang còn sống như thế ấy.”
36. Nhái cần biết rõ, nhái này,
Ðại vương không thể giữ bầy nhái ranh!
Việc này vua chẳng tội tình,
Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày!
3079. Adhammarūpo vata brahmacāri anumpiyaṃ bhāsasi khattiyassa, vilumpamānāya puthuppajāya pūjesi rājaṃ paramappavādaṃ.
3079. “Ông quả là người thực hành Phạm hạnh với hình thức phi pháp, ông nói lời xu nịnh đến vị Sát-đế-lỵ. Trong khi số đông chúng sanh đang bị cướp bóc, ông ca ngợi đức vua có lời tuyên bố tuyệt hảo.
37. Tế sư lời nịnh khéo thay,
Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,
Mặc cho dân bị sát tàn,
Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư
Quả là đệ nhất tài ba;
Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.
3080. Sace idaṃ brahme surajjakaṃ siyā phītaṃ raṭṭhaṃ muditaṃ vippasannaṃ, bhutvā baliṃ aggapiṇḍañca kākā na mādisaṃ jīvamadeyyuṃ dhaṅkā ”ti.
3080. Thưa vị Bà-la-môn, nếu đất nước có sự cai trị tốt đẹp này là phồn thịnh, hòa bình, an lạc, các con quạ sau khi đã ăn đồ cúng tế và các phần thức ăn quý giá, các con quạ sẽ không ăn thịt những con nhái đang còn sống như tôi.”
38. Nước này an lạc, thái bình,
Quạ kia được hưởng phần mình cực sang
Có đâu cần phải giết càn
Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?
Gandhatindukajātakaṃ.
***
Bổn sanh Thần Cây Tinduka. [520]
***
TASSUDDĀNAṂ
Kiṃchanda kumbhajayaddisachaddanta atha paṇḍita sambhava sīrakampi, dakarakkhasa paṇḍaranāsavaro atha sambula tindukadevaputto ”ti.
TÓM LƯỢC NHÓM NÀY
Mong muốn gì, bình rượu, vua Jayaddisa, voi chúa Chaddanta, rồi bậc trí Sambhava, thêm con khỉ thủ lãnh, chuyện vị thủy thần, và rồng chúa Paṇḍaraka, kế đến hoàng hậu Sambulā, và Thiên tử Tinduka.
Tiṃsatinipāto niṭṭhito.
–ooOoo–
Nhóm Ba Mươi Kệ Ngôn được chấm dứt.
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh II
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda