I. Uragavaggo – Phẩm Rắn – Kinh Rắn – Dhaniya – Sừng Tê Giác
TAM TẠNG PĀLI – VIỆT
KHUDDAKANIKĀYA – TIỂU BỘ
SUTTANIPĀTAPĀḶI – KINH TẬP
I. URAGAVAGGO – PHẨM RẮNBuddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) – Tạng Sri LankaLời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu
1. URAGASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
1. KINH RẮN (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
1. KINH RẮN (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
1. Yo uppatitaṃ vineti kodhaṃ visaṭaṃ sappavisaṃva osadhehi,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
1. Vị (tỳ khưu) nào xua đi cơn giận dữ đã trổi dậy, tựa như (kẻ xua đi) nọc rắn độc đã lan tỏa nhờ vào các loại thảo dược, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
1. Ai nhiếp phục phẫn nộ
Ðang được dấy khởi lên,
Như dùng chất linh dược,
Ngăn độc rắn lan rộng
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
2. Yo rāgamudacchidā asesaṃ bhisapupphaṃ’va saroruhaṃ vigayha,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
2. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn luyến ái, tựa như kẻ đã lội xuống (cắt đứt) đóa hoa sen mọc lên ở hồ nước, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
2. Ai cắt đứt tham dục,
Không còn chút dư tàn,
Như kẻ hái hoa sen
Sanh ra từ ao hồ.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
3. Yo taṇhamudacchidā asesaṃ saritaṃ sīghasaraṃ visosayitvā,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
3. Vị (tỳ khưu) nào đã cắt đứt hoàn toàn tham ái, sau khi đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh, [1] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
3. Ai cắt đứt tham ái,
Không còn chút dư tàn,
Làm cho nước cạn khô,
Dòng nước chảy nhanh mạnh
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
[1] Giáo sư K. R. Norman, ở bản dịch The Group of Discourses của mình, đồng ý với sự hiệu đính của Brough như sau: saritaṃ sīghasaraṃ’va sosayitvā = tựa như kẻ đã làm khô cạn dòng suối nước trôi nhanh.
4. Yo mānamudabbadhī asesaṃ naḷasetuṃ’va sudubbalaṃ mahogho,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
4. Vị (tỳ khưu) nào đã hủy diệt hoàn toàn ngã mạn, tựa như cơn lũ lớn (hủy diệt) cây cầu làm bằng sậy vô cùng yếu ớt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
4. Ai phá hoại kiêu mạn
Không còn chút dư tàn,
Như nước mạnh tàn phá
Cây cỏ lau yếu hèn,
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
5. Yo nājjhagamā bhavesu sāraṃ vicinaṃ pupphamiva udumbaresu,
so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
5. Vị (tỳ khưu) nào đã không đi đến bản thể ở các hữu, [1] tựa như kẻ (không đạt được bông hoa) trong khi tìm kiếm bông hoa ở những cây sung, [2] vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
5. Ai trong các sanh hữu,
Không tìm thấy lõi cây,
Như kẻ đi hái hoa,
Trên cây sung không hoa.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
———————-
[1] Bản thể ở các hữu: bản thể thường còn hoặc bản thể tự ngã ở các cõi dục, cõi sắc, cõi vô sắc, cõi hữu tưởng, cõi vô tưởng, cõi phi tưởng phi phi tưởng, cõi một uẩn, cõi bốn uẩn, cõi năm uẩn (SnA. i, 19).
[2] Theo Chú Giải, udumbara là loại cây không có bông hoa (Sđd.). Từ điển ghi nghĩa udumbara là cây sung, cây vả, dướng như hai loại cây này kết trái nhưng không trải qua thời kỳ trổ hoa.
6. Yassantarato na santi kopā iti bhavābhavataṃ ca vītivatto, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
6. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các sự bực tức không hiện diện ở trong tâm, vị đã vượt qua khỏi hữu và phi hữu như thế, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
6. Với ai trong nội tâm,
Không còn có phẫn hận,
Ðã vượt thoát ra khỏi,
Cả hữu và phi hữu.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
7. Yassa vitakkā vidhūpitā ajjhattaṃ suvikappitā asesā, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
7. Đối với vị (tỳ khưu) nào các ý nghĩ suy tầm được thiêu đốt, khéo được cắt bỏ ở nội tâm, không còn dư sót, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
7. Với ai những tầm tư,
Ðược làm cho tan biến
Nội tâm khéo sửa soạn,
Không còn chút dư tàn.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
8. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ accagamā imaṃ papañcaṃ, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
8. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, đã chế ngự tất cả vọng tưởng này, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
8. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Ðã nhiếp phục toàn diện,
Hý luận chướng ngại này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
9. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti ñatva loke, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
9. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, sau khi biết được về thế gian rằng: ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
9. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Biết rõ được ở đời,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
10. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītalobho, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
10. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có tham đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
10. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không có tham,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
11. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītarāgo, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
11. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có luyến ái đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
11. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, không tham dục,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
12. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītadoso, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
12. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có sân đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
12. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly sân hận,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
13. Yo nāccasārī na paccasārī sabbaṃ vitathamidanti vītamoho, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
13. Vị (tỳ khưu) nào đã không vượt quá, đã không quay trở lại, (sau khi biết được rằng) ‘Toàn bộ điều này là không thật,’ có si đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
13. Ai không đi quá trớn,
Cũng không quá chậm trễ,
Từ bỏ, ly si ám,
Sự này toàn hư vọng.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
14. Yassānusayā na santi keci mūlā akusalā samūhatāse, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
14. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp tiềm ẩn đều không hiện diện, (và) các cội rễ bất thiện đều đã được trừ diệt, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
14. Với ai, các tùy miên,
Hoàn toàn không hiện hữu,
Các nguồn gốc bất thiện
Ðược nhổ lên trừ sạch.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
15. Yassa darathajā na santi keci oraṃ āgamanāya paccayāse, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
15. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bực bội, (là) các duyên đưa về lại bờ này, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
15. Với ai, không có gì,
Do phiền não sanh khởi,
Làm duyên trở lui lại,
Về lại bờ bên này.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
16. Yassa vanathajā na santi keci vinibandhāya bhavāya hetukappā, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
16. Đối với vị (tỳ khưu) nào mà các pháp sanh ra từ sự bám lấy đối tượng, (là) các pháp làm nhân đưa đến sự trói chặt vào hiện hữu, đều không hiện diện, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
16. Với ai, không có gì,
Do rừng ái sanh khởi,
Tạo nhân khiến trói buộc
Con người vào tái sanh.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
17. Yo nīvaraṇe pahāya pañca anīgho tiṇṇakathaṃkatho visallo, so bhikkhu jahāti orapāraṃ urago jiṇṇamiva tacaṃ purāṇaṃ.
17. Vị (tỳ khưu) nào sau khi đã dứt bỏ năm pháp che lấp, không có phiền muộn, có sự nghi ngờ đã được vượt qua, có mũi tên đã được xa lìa, vị tỳ khưu ấy từ bỏ bờ này và bờ kia, tựa như con rắn từ bỏ lớp da cũ đã bị già cỗi.
17. Ai đoạn năm triền cái,
Không sầu khổ bực phiền,
Vượt qua được nghi hoặc,
Thoát mũi tên phiền não.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa.
Uragasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Rắn.
2. DHANIYASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
2. KINH DHANIYA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, viết thường)
2. KINH DHANIYA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, in nghiêng)
18. Pakkodano duddhakhīro ’hamasmi (iti dhaniyo gopo) anutīre mahiyā samānavāso, channā kuṭi āhito gini
atha ce patthayasi pavassa deva.
18. (Người chăn nuôi bò Dhaniya[1] nói): “Tôi có cơm đã nấu chín, có sữa đã vắt xong, cư ngụ cùng gia đình bên bờ sông Mahī, cái chòi đã được lợp kín, lửa đã được nhóm lên. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
——————–
[1] Người chăn nuôi bò Dhaniya (dhaniyo gopo): Dhaniya là tên một người con trai phú hộ, gopo (gopī: nữ tánh) là người chăn nuôi trâu bò của chính mình, còn người chăn giữ trâu bò của người khác để nhận tiền công gọi là gopālaka (SnA. i, 28). Chú Giải cho biết bầy bò của Dhaniya có số lượng là 30.000 con, (trong số đó) 27.000 con được vắt sữa (Sđd. 26).
Dhaniya:
18. Cơm ta, nấu đã chín,
Sữa uống, ta vắt xong,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chung sống đồng cư,
Chòi lá được khéo lợp,
Lửa đốt được cháy đỏ.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
19. Akkodhano vigatakhīlo ’hamasmi (iti bhagavā) anutīre mahiyekarattivāso, vivaṭā kuṭi nibbuto gini
atha ce patthayasi pavassa deva.
19. (Đức Thế Tôn nói): “Ta không có giận dữ, sự bướng bỉnh đã xa lìa, cư ngụ một đêm bên bờ sông Mahī, cái chòi (bản ngã) đã được mở ra, lửa đã được diệt khoá màn hình. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
19. Ta đoạn được phẫn nộ,
Tâm hoang vu không còn,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Trên bờ sông Mahì,
Ta chỉ sống một đêm,
Chòi lá được rộng mở,
Lửa đốt được tịch tịnh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
20. Andhakamakasā na vijjare (iti dhaniyo gopo) kacche rūḷhatiṇe caranti gāvo, vuṭṭhimpi saheyyumāgataṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
20. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “Ruồi và muỗi không tìm thấy, bầy bò bước đi ở đầm lầy có cỏ đã mọc, thậm chí cơn mưa đến, chúng cũng có thể chịu đựng. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Dhaniya:
20. Ruồi lằn và muỗi mòng,
Ở đây không tìm thấy,
Mục đồng Dhaniya,
Ðã nói lên như vậy.
Trên cánh đồng cỏ mọc,
Ðàn bò đi ăn cỏ,
Dầu cơn mưa có đến,
Chúng có thể chịu đựng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
21. Baddhā hi bhisi susaṅkhatā (iti bhagavā) tiṇṇo pāragato vineyya oghaṃ, attho bhisiyā na vijjati
atha ce patthayasi pavassa deva.
21. (Đức Thế Tôn nói): “Chiếc bè quả đã được buộc lại, đã khéo được tạo ra. Ta đã vượt qua, đã đi đến bờ kia, sau khi đã chế ngự dòng lũ; nhu cầu với chiếc bè không tìm thấy. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
21. Các bè đã được cột,
Khéo tác thành tốt đẹp,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ai qua được bờ kia,
Nhiếp phục dòng nước mạnh,
Lợi ích của chiếc bè,
Ðâu còn thấy cần thiết.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
22. Gopī mama assavā alolā (iti dhaniyo gopo)
dīgharattaṃ saṃvāsiyā manāpā,
tassā na suṇāmi kiñci pāpaṃ
atha ce patthayasi pavassa deva.
22. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “Người vợ của tôi nhu thuận, không tham lam, hợp ý, cùng chung sống thời gian dài, tôi không được nghe bất cứ điều gì xấu xa của nàng. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Dhaniya:
22. Vợ ta khéo nhu thuận,
Không có tham dục gì,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðã lâu ngày chung sống,
Vừa đẹp ý đẹp lòng,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về nàng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
23. Cittaṃ mama assavaṃ vimuttaṃ (iti bhagavā) dīgharattaṃ paribhāvitaṃ sudantaṃ, pāpaṃ pana me na vijjati atha ce patthayasi pavassa deva.
23. (Đức Thế Tôn nói): “Tâm của Ta nhu thuận, đã được giải thoát, được phát triển toàn diện, khéo được huấn luyện thời gian dài, hơn nữa điều xấu xa của Ta không tìm thấy. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
23. Tâm Ta khéo nhu thuận,
Ðược giải thoát, mở rộng,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Lâu ngày tu viên mãn,
Khéo nhiếp phục chế ngự,
Trong Ta các pháp ác,
Không còn được tìm thấy.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
24. Attavetanabhato ’hamasmi (iti dhaniyo gopo) puttā ca me samāniyā arogā, tesaṃ na suṇāmi kiñci pāpaṃ atha ce patthayasi pavassa deva.
24. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “Tôi sinh sống bằng lợi tức của bản thân, và những người con trai của tôi cùng sống chung, không bệnh tật, tôi không nghe bất cứ điều gì xấu xa của chúng. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Dhaniya:
24. Với lợi tức thâu hoạch,
Ta tự nuôi sống ta,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy,
Con ta và cả ta,
Sống chung không bệnh hoạn,
Ta không nghe điều gì,
Thuộc ác hạnh về chúng.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
25. Nāhaṃ bhatako ’smi kassaci (iti bhagavā) nibbiṭṭhena carāmi sabbaloke, attho bhatiyā na vijjati atha ce patthayasi pavassa deva.
25. (Đức Thế Tôn nói): “Ta không là người làm thuê cho bất cứ ai, với sự thành tựu (phẩm vị Toàn Tri) Ta du hành ở khắp thế gian, nhu cầu về lương bổng không tìm thấy, Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
25. Ta không có làm mướn,
Cho một ai ở đời,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy
Với điều được chứng đắc,
Ta du hành thế giới,
Về tiền công cần thiết,
Không thể có nơi Ta.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
26. Atthi vasā atthi dhenupā (iti dhaniyo gopo) godharaṇiyo paveṇiyopi atthi, usabhopi gavampatīdha atthi atha ce patthayasi pavassa deva.
26. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “(Tôi) có các bò con mới lớn, có các bò cái cho con bú, có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành, ở đây cũng có con bò đực, chúa đàn. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Dhaniya:
26. Ðây có các bò cái,
Ðây có các bò con,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Ðây có những bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây có những bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
27. Natthi vasā natthi dhenupā (iti bhagavā) godharaṇiyo paveṇiyopi natthi, usabhopi gavampatīdha natthi atha ce patthayasi pavassa deva.
27. (Đức Thế Tôn nói): “(Ta) không có các bò con mới lớn, không có các bò cái cho con bú, không có các bò cái mang thai, luôn cả các bò cái vừa trưởng thành, ở đây cũng không có con bò đực, chúa đàn. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
27. Ðây không có bò cái,
Ðây không có bò con,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Ðây không có bò mẹ,
Mang thai, nối giống dòng,
Ðây không có bò đực,
Những con chúa đầu đàn.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
28. Khīḷā nikhātā asampavedhī (iti dhaniyo gopo) dāmā muñjamayā navā susaṇṭhānā, na hi sakkhinti dhenupāpi chettuṃ atha ce patthayasi pavassa deva.
28. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “Các cây cọc đã được chôn xuống, không bị lay động. Các dây buộc mới, làm bằng cỏ muñja, có phẩm chất tốt, ngay cả các con bò cái cho con bú cũng không thể giật đứt. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Dhaniya:
28. Cây cột được đóng sâu,
Không còn bị dao động,
Mục đồng Dhaniya
Ðã nói lên như vậy.
Các dây bằng cây lau,
Ðược bện lại mới chắc,
Và các con bò con,
Không thể nào giật đứt.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
29. Usabhoriva chetva bandhanāni (iti bhagavā) nāgo pūtilataṃ va dāḷayitvā, nāhaṃ puna upessaṃ gabbhaseyyaṃ atha ce patthayasi pavassa deva.
29. (Đức Thế Tôn nói): “Tựa như con bò đực đã cắt đứt các sự trói buộc, tựa như con voi đã bứt lìa sợi dây rừng thối tha, Ta sẽ không đi đến việc nằm ở bào thai lần nữa. Này vị Trời, giờ đây nếu ngài muốn, ngài hãy đổ mưa đi.”
Thế Tôn:
29. Giống như con bò đực,
Giật đứt các trói buộc,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác
Ðã nói lên như vậy.
Như voi làm bựt đứt
Các giây leo héo mục,
Ta không còn đi đến,
Chỗ thai tạng tái sanh.
Nếu là ý người muốn,
Thần mưa, hãy mưa đi.
30. Ninnañca thalañca pūrayanto mahāmegho pāvassi tāvadeva, sutvā devassa vassato imamatthaṃ dhaniyo abhāsatha.
30. Ngay khi ấy, có đám mây lớn đã đổ mưa, làm tràn ngập vùng đất trũng và đất cao. Sau khi nghe được Trời đang mưa, Dhaniya đã nói lên ý nghĩa này:
30. Rồi mưa lớn đổ xuống,
Làm đầy tràn đất trũng,
Làm tràn ngập đất cao,
Nghe trời gầm, mưa, thét,
Mục đồng Dhaniya,
Nói lên lời như sau:
31. Lābho vata no anappako ye mayaṃ bhagavantaṃ addasāma, saraṇaṃ taṃ upema cakkhuma satthā no hohi tuvaṃ mahāmuni.
31. (Người chăn nuôi bò Dhaniya nói): “Quả thật lợi ích của chúng tôi là không ít, chúng tôi đã được gặp đức Thế Tôn. Thưa đấng Hữu Nhãn, chúng con đi đến nương tựa Ngài. Thưa bậc Đại Hiền Trí, xin Ngài hãy là bậc Đạo Sư của chúng con.
Dhaniya:
31. Lợi thay cho chúng ta,
Ðâu phải là lợi nhỏ,
Chúng ta được chiêm ngưỡng,
Bậc Chánh Giác, Thế Tôn.
Ôi! Kính bậc Pháp nhãn,
Con xin quy y Ngài,
Kính bậc Ðại ẩn sĩ,
Hãy là Thầy chúng con.
32. Gopī ca ahañca assavā brahmacariyaṃ sugate carāmase, jātimaraṇassa pāragā dukkhassantakarā bhavāmase.
32. Vợ và con là những người nhu thuận, hãy cho chúng con thực hành Phạm hạnh ở nơi đấng Thiện Thệ, hãy cho chúng con trở thành những người đi đến bờ kia của sanh tử, những người thực hiện sự chấm dứt khổ đau.
32. Vợ con và cả con,
Là những người nhu thuận,
Xin sống đời Phạm hạnh,
Dưới chân bậc Thiện Thệ.
Ðược đến bờ bên kia,
Vượt khỏi sanh già chết,
Chúng con sẽ trở thành
Người đoạn tận đau khổ.
33. Nandati puttehi puttimā (iti māro pāpimā) gomiko gohi tatheva nandati, upadhī hi narassa nandanā na hi so nandati yo nirūpadhī.
33. (Ma Vương ác độc nói): “Người có con trai vui vẻ với các con trai, tương tự y như thế, người chủ bầy bò vui vẻ với bầy bò. Bởi vì mầm tái sanh là niềm vui vẻ của con người, bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không vui vẻ.”
Màra:
33. Ai có các con trai,
Hoan hỷ với con trai,
Ðây là lời Ác ma,
Ðã nói lên như vậy
Người chủ các con bò,
Hoan hỷ với con bò.
Còn người thì hoan hỷ,
Ðối với sự sanh y,
Ai không có sanh y,
không thể có hoan hỷ.
34. Socati puttehi puttimā (iti bhagavā) gomiko gohi tatheva socati, upadhī hi narassa socanā na hi so socati yo nirūpadhī ”ti.
34. (Đức Thế Tôn nói): “Người có con trai sầu muộn với các con trai, tương tự y như thế, người chủ bầy bò sầu muộn với bầy bò. Bởi vì mầm tái sanh là nỗi sầu muộn của con người, bởi vì người nào không có mầm tái sanh, người ấy không sầu muộn.”
Thế Tôn:
34. Ai có các con trai,
Sầu muộn với con trai,
Bậc Thế Tôn, Chánh Giác,
Ðã nói lên như vậy.
Người chủ các con bò,
Sầu muộn với con bò;
Sầu muộn của con người,
Chính do sự sanh y,
Ai không có sanh y,
Không thể có sầu muộn.
Dhaniyasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Dhaniya.
3. KHAGGAVISĀṆASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
3. KINH SỪNG TÊ GIÁC (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
3. KINH CON TÊ NGƯU MỘT SỪNG (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
35. Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ aviheṭhayaṃ aññatarampi tesaṃ, na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ eko care khaggavisāṇakappo.
35. Buông bỏ sự trừng phạt đối với tất cả chúng sanh, không hãm hại bất cứ ai trong số họ, không nên mong mỏi đứa con trai, sao lại (mong mỏi) bạn bè? Nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
35. Ðối với các hữu tình,
Từ bỏ gậy và trượng,
Chớ làm hại một ai
Trong chúng hữu tình ấy.
Con trai không ước muốn,
Còn nói gì bạn bè,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
36. Saṃsaggajātassa bhavanti snehā snehanvayaṃ dukkhamidaṃ pahoti, ādīnavaṃ snehajaṃ pekkhamāno
eko care khaggavisāṇakappo.
36. Các sự thương yêu hiện hữu đối với người đã có sự giao tiếp, theo sau sự thương yêu là khổ đau này được thành lập. Trong khi xét thấy điều bất lợi sanh lên từ sự thương yêu, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
36. Do thân cận giao thiệp,
Thân ái từ đấy sanh,
Tùy thuận theo thân ái,
Khổ này có thể sanh.
Nhìn thấy những nguy hại,
Do thân ái sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình,
Như tê ngưu một sừng.
37. Mitte suhajje anukampamāno hāpeti atthaṃ paṭibaddhacitto, etaṃ bhayaṃ santhave pekkhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
37. Trong khi thương tưởng đến các bạn bè thân hữu, (thời) buông rơi mục đích, có tâm bị ràng buộc. Trong khi xét thấy mối nguy hiểm này ở sự giao du, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
37. Do lòng từ thương mến,
Ðối bạn bè thân hữu,
Mục đích bị bỏ quên,
Tâm tư bị buộc ràng,
Do thấy sợ hãi này,
Trong giao du mật thiết,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
38. Vaṃso visālo va yathā visatto puttesu dāresu ca yā apekhā, vaṃsakaḷīro va asajjamāno eko care khaggavisāṇakappo.
38. Giống như lùm tre rậm rạp bị vướng víu sự mong mỏi (yêu thương) các con và những người vợ (là tương tự). Trong khi không bị vướng víu như là mụt măng tre, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
38. Ai nhớ nghĩ chờ mong,
Ðối với con và vợ,
Người ấy bị buộc ràng,
Như cành tre rậm rạp,
Còn các ngọn tre cao,
Nào có gì buộc ràng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
39. Migo araññamhi yathā abaddho yenicchakaṃ gacchati gocarāya, viññū naro seritaṃ pekkhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
39. Giống như con nai ở trong rừng không bị trói buộc đi đến nơi kiếm ăn tùy theo ý thích, người hiểu biết trong khi xem xét về sự tự do, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
39. Như nai trong núi rừng,
Không gì bị trói buộc,
Tự đi chỗ nó muốn
Ðể tìm kiếm thức ăn.
Như các bậc Hiền trí,
Thấy tự do giải thoát,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
40. Āmantanā hoti sahāyamajjhe vāse ṭhāne gamane cārikāya, anabhijjhitaṃ seritaṃ pekkhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
40. Có sự mời gọi giữa bạn bè về chuyện nghỉ ngơi, về việc đứng gần, về sự ra đi, về cuộc du hành, trong khi xem xét về sự tự do không được (kẻ khác) ham thích,[1] nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
[1] Sự xuất gia là không được ham thích, không được mong ước bởi tất cả những kẻ tầm thường bị tham chế ngự (SnA. i, 85).
40. Giữa bạn bè thân hữu,
Bị gọi lên gọi xuống,
Tại chỗ ở trú xứ,
Hay trên đường bộ hành.
Thấy tự do giải thoát,
Không có gì tham luyến,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
41. Khiḍḍā ratī hoti sahāyamajjhe puttesu ca vipulaṃ hoti pemaṃ, piyavippayogañca jigucchamāno eko care khaggavisāṇakappo.
41. Sự vui đùa thích thú ở giữa đám bạn bè và lòng thương yêu đối với con cái là bao la, trong khi chán ghét sự tách lìa khỏi những người yêu dấu, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
41. Giữa bạn bè thân hữu,
Ưa thích, vui cười đùa,
Ðối với con, với cháu,
Ái luyến thật lớn thay,
Nhàm chán sự hệ lụy,
Với những người thân ái,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
42. Cātuddiso appaṭigho ca hoti santussamāno itarītarena, parissayānaṃ sahitā achambhī eko care khaggavisāṇakappo.
42. Người không lòng bất bình trải khắp bốn phương, tự hài lòng với vật dụng dầu tốt hay xấu, chịu đựng mọi hiểm nghèo không lòng hoảng sợ, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
42. Khắp cả bốn phương trời,
Không sân hận với ai,
Tự mình biết vừa đủ,
Với vật này vật khác,
Vững chịu các hiểm nguy,
Không run sợ dao động,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
43. Dussaṅgahā pabbajitāpi eke atho gahaṭṭhā gharamāvasantā, appossukko paraputtesu hutvā eko care khaggavisāṇakappo.
43. Ngay cả một số các vị đã xuất gia cũng khó đồng thuận, những kẻ tại gia đang sống dưới mái gia đình cũng vậy, đã là người ít bị bận tâm về con cái của những kẻ khác, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
43. Có số người xuất gia,
Chung sống thật khó khăn,
Cũng như các gia chủ,
Ở tại các cửa nhà,
Sống vô tư vô lự,
Giữa con cháu người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
44. Oropayitvā gihī vyañjanāni saṃsīnapatto yathā koviḷāro, chetvāna vīro gihibandhanāni eko care khaggavisāṇakappo.
44. Hãy cởi bỏ các hình tướng tại gia như loài cây koviḷāro có lá được rũ bỏ, là người anh hùng, sau khi cắt đứt mọi sự ràng buộc của gia đình, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
44. Từ bỏ, để một bên,
Mọi biểu dương gia đình,
Như loại cây san hô,
Tước bỏ mọi lá cây,
Bậc anh hùng cắt đứt,
Mọi trói buộc gia đình.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
45. Sace labhetha nipakaṃ sahāyaṃ saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ, abhibhuyya sabbāni parissayāni careyya tenattamano satīmā.
45. Nếu có thể đạt được người bạn chín chắn, kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng, sau khi khắc phục mọi sự hiểm nghèo, nên du hành với vị ấy, có sự hoan hỷ, có niệm.
45. Nếu tìm được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Cùng nhau đồng nhiếp phục,
Tất cả mọi hiểm nạn,
Hãy sống với bạn ấy,
Hoan hỷ, giữ chánh niệm.
46. No ce labhetha nipakaṃ sahāyaṃ saddhiṃ caraṃ sādhuvihāri dhīraṃ, rājā ’va raṭṭhaṃ vijitaṃ pahāya eko care khaggavisāṇakappo.
46. Nếu không thể đạt được người bạn chín chắn, kẻ đồng hành sáng suốt, sống ngay thẳng, tương tự như vị vua từ bỏ lãnh địa đã xâm chiếm được, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
46. Nếu không được bạn lành,
Thận trọng và sáng suốt,
Bạn đồng hành chung sống,
Bạn thiện trú Hiền trí.
Hãy như vua từ bỏ,
Ðất nước bị bại vong,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
47. Addhā pasaṃsāma sahāyasampadaṃ seṭṭhā samāsevitabbā sahāyā, ete aladdhā anavajjabhojī eko care khaggavisāṇakappo.
47. Quả vậy, chúng ta ca ngợi sự thành tựu về bạn bè. Những bạn bè vượt trội (hoặc) tương đương là nên giao thiệp. (Nếu) những người này là không đạt được, (nên) thọ hưởng những gì không bị chê trách, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
47. Thật chúng ta tán thán,
Các bằng hữu chu toàn,
Bậc hơn ta, bằng ta,
Nên sống gần thân cận.
Nếu không gặp bạn này.
Những bậc không lầm lỗi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
48. Disvā suvaṇṇassa pabhassarāni kammāraputtena suniṭṭhitāni, saṅghaṭṭamānāni duve bhujasmiṃ eko care khaggavisāṇakappo.
48. Sau khi nhìn thấy những (vòng) vàng sáng chói khéo được hoàn thành bởi con trai người thợ kim hoàn, (chúng) đang va chạm vào nhau khi hai vòng ở trên cùng cánh tay, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
48. Thấy đồ trang sức vàng,
Lấp lánh và sáng chói,
Ðược con người thợ vàng,
Khéo làm, khéo tay làm,
Hai chúng chạm vào nhau,
Trên hai tay đeo chúng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
49. Evaṃ dutiyena sahā mamassa vācābhilāpo abhisajjanā vā, etaṃ bhayaṃ āyatiṃ pekkhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
49. Tương tự như thế, cùng với người thứ hai, có thể xảy đến cho tôi sự chuyện vãn bằng lời nói hoặc sự quyến luyến sâu đậm. Trong khi xem xét thấy mối nguy hiểm này trong tương lai, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
49. Như vậy nếu ta cùng
Với một người thứ hai,
Tranh luận cãi vã nhau,
Sân hận, gây hấn nhau,
Nhìn thấy trong tương lai,
Sợ hãi hiểm nguy này,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.’
50. Kāmā hi citrā madhurā manoramā virūparūpena mathenti cittaṃ, ādīnavaṃ kāmaguṇesu disvā eko care khaggavisāṇakappo.
50. Bởi vì các dục là đa dạng, ngọt ngào, làm thích ý, chúng khuấy động tâm bằng nhiều hình thức khác nhau. Sau khi nhìn thấy điều bất lợi ở các loại dục, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
50. Các dục thật mỹ miều,
Ngọt thơm và đẹp ý,
Dưới hình sắc, phi sắc,
Làm mê loạn tâm tư,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
51. Ītī ca gaṇḍo ca upaddavo ca rogo ca sallañca bhayañca metaṃ, etaṃ bhayaṃ kāmaguṇesu disvā eko care khaggavisāṇakappo.
51. Điều này là tai họa, là mụt nhọt, là bất hạnh, là tật bệnh, là mũi tên, và là sự nguy hiểm cho tôi. Sau khi nhìn thấy mối nguy hiểm này ở các loại dục, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
51. Ðây là một mụn nhọt,
Và cũng là tai họa,
Một tật bệnh, mũi tên,
Là sợ hãi cho ta,
Thấy sự nguy hiểm này,
Trong các dục trưởng dưỡng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
52. Sītañca uṇhañca khudaṃ pipāsaṃ vātātape ḍaṃsasiriṃsape ca, sabbāni petāni abhisambhavitvā eko care khaggavisāṇakappo.
52. Lạnh, nóng, đói, khát, gió và sức nóng, muỗi mòng và rắn rết, sau khi đã khắc phục tất cả những điều này, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
52. Lạnh lẽo và nóng bức,
Ðói bụng và khát nước,
Gió thổi, ánh mặt trời.
Muỗi lằn và rắn rết.
Tất cả xúc chạm này,
Ðều chịu đựng vượt qua,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
53. Nāgo va yūthāni vivajjayitvā sañjātakhandho padumī uḷāro, yathābhirantaṃ vihare araññe eko care khaggavisāṇakappo.
53. Tựa như con long tượng có thân hình khổng lồ, có đốm hoa sen, cao thượng, đã lìa bỏ các bầy đàn sống trong rừng theo như ý thích, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
53. Như con voi to lớn,
Từ bỏ cả bầy đàn,
Thân thể được sanh ra,
To lớn tợ hoa sen,
Tùy theo sự thích thú,
Sống tại chỗ rừng núi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
54. Aṭṭhānataṃ saṅgaṇikāratassa yaṃ phassaye sāmayikaṃ vimuttiṃ, ādiccabandhussa vaco nisamma eko care khaggavisāṇakappo.
54. Người ưa thích sự tụ hội có thể chạm đến sự giải thoát tạm thời[1] là điều không có cơ sở. Sau khi cân nhắc lời nói của đấng quyến thuộc của mặt trời, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
[1] “sāmayikaṃ vimuttinti lokiyasamāpattiṃ” (ApA. 182): “sự giải thoát tạm thời là sự thể nhập hiệp thế” (các tầng thiền và ngũ thông – ND).
54. Ai ưa thích hội chúng,
Sự kiện không xảy ra,
Người ấy có thể chứng,
Cảm thọ thời giải thoát.
Cân nhắc lời giảng dạy,
Ðấng bà con mặt trời,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
55. Diṭṭhīvisūkāni upātivatto patto niyāmaṃ paṭiladdhamaggo, uppannañāṇo ’mhi anaññaneyyo eko care khaggavisāṇakappo.
55. (Nghĩ rằng): ‘Tôi đã vượt lên trên các sự trái khuấy của tà kiến, đã đạt đến pháp không thối đọa, có đạo lộ đã được tiếp thâu, có trí đã được sanh khởi, không cần người khác dẫn dắt,’ nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
55. Ðược giải thoát vượt khỏi,
Các tri kiến hý luận,
Ðạt được quyết định tánh,
Chứng đắc được con đường.
Nơi ta trí được sanh,
Không cần nhờ người khác,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
56. Nillolupo nikkuho nippipāso nimmakkho niddhantakasāvamoho, nirāsayo sabbaloke bhavitvā eko care khaggavisāṇakappo.
56. Sau khi đã trở nên không còn tham muốn, không giả dối, không khao khát, không gièm pha, có các tật xấu và sự mê muội đã được loại trừ, không còn ước ao (tham vọng) về toàn thể thế giới, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
56. Không tham, không lừa đảo,
Không khát dục, gièm pha,
Mọi si mê ác trược,
Ðược gạn sạch quạt sạch.
Trong tất cả thế giới,
Không tham ái ước vọng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
57. Pāpasahāyaṃ parivajjayetha
anatthadassiṃ visame niviṭṭhaṃ, sayaṃ na seve pasutaṃ pamattaṃ eko care khaggavisāṇakappo.
57. Nên lánh xa hẳn bạn bè ác xấu, kẻ không nhìn thấy mục đích, bị dấn sâu vào sở hành sai trái. Không nên chính mình giao thiệp với kẻ cố chấp (tà kiến), bị xao lãng, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
57. Với bạn bè độc ác,
Hãy từ bỏ lánh xa,
Bạn không thấy mục đích,
Quen nếp sống quanh co,
Chớ tự mình thân cận,
Kẻ đam mê phóng dật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
58. Bahussutaṃ dhammadharaṃ bhajetha mittaṃ uḷāraṃ paṭibhānavantaṃ, aññāya atthāni vineyya kaṅkhaṃ eko care khaggavisāṇakappo.
58. Nên thân cận với vị nghe nhiều (học rộng), nắm giữ Giáo Pháp, người bạn cao thượng, có biện tài. Sau khi nhận biết các sự lợi ích, sau khi loại trừ điều nghi hoặc, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
58. Bậc nghe nhiều trì pháp,
Hãy gần gũi người ấy,
Bạn người tâm rộng lớn,
Người thông minh biện tài,
Biết điều không nên làm,
Nhiếp phục được nghi hoặc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
59. Khiḍḍaṃ ratiṃ kāmasukhañca loke analaṃkaritvā anapekkhamāno, vibhūsanaṭṭhānā virato saccavādī eko care khaggavisāṇakappo.
59. Người không chú trọng và không mong mỏi sự vui đùa, sự thích thú, và khoái lạc ngũ dục ở trên đời, đã xa lánh hẳn việc trang sức, có lời nói chân thật, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
59. Mọi du hí vui đùa,
Và dục lạc ở đời,
Không điểm trang bày biện,
Không ước vọng mong cầu,
Từ bỏ mọi hào nhoáng,
Nói lên lời chân thật,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
60. Puttañca dāraṃ pitarañca mātaraṃ dhanāni dhaññāni ca bandhavāni, hitvāna kāmāni yathodhikāni eko care khaggavisāṇakappo.
60. Sau khi từ bỏ con và vợ, cha và mẹ, các tài sản và lúa gạo, các quyến thuộc, và các dục theo như mức giới hạn (của chúng), nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
60. Với con và với vợ,
Với cha và với mẹ,
Tài sản cùng lúa gạo,
Những trói buộc bà con,
Hãy từ bỏ buộc ràng,
Các dục vọng như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
61. Saṅgo eso parittamettha sokhyaṃ appassādo dukkhamettha bhiyyo, gaḷo eso iti ñatvā mutīmā eko care khaggavisāṇakappo.
61. Điều này (ngũ dục) là sự dính líu, hạnh phúc ở đây là nhỏ nhoi, ít khoái lạc, sự khổ đau ở đây là nhiều hơn. Người có sự sáng suốt, sau khi biết được điều này là móc câu, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
61. Chúng đều là trói buộc,
Lạc thú thật nhỏ bé,
Vị ngọt thật ít oi,
Khổ đau lại nhiều hơn,
Chúng đều là câu móc,
Bậc trí biết như vậy,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
62. Sandāḷayitvāna saṃyojanāni jālambhetvā salilambucārī, aggīva daḍḍhaṃ anivattamano eko care khaggavisāṇakappo.
62. Sau khi đã tự phá tan các mối ràng buộc, tựa như loài thủy tộc đã phá tan chiếc lưới ở trong nước, tựa như ngọn lửa không quay lại nơi đã bị đốt cháy, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
62. Hãy chặt đứt, bẻ gãy,
Các kiết sử trói buộc,
Như các loài thủy tộc,
Phá hoại các mạng lưới.
Như lửa đã cháy xong,
Không còn trở lui lại,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
63. Okkhittacakkhu na ca pādalolo guttindriyo rakkhitamānasāno, anavassuto apariḍayhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
63. Có mắt nhìn xuống và không buông thả ở bước chân đi, có các căn được canh phòng, có tâm ý được gìn giữ, không bị ngập tràn (dục vọng), không bị thiêu đốt (bởi phiền não), nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
63. Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân đi không lưu luyến,
Các căn được hộ trì,
Tâm ý khéo chế ngự.
Không đầy ứ, rỉ chảy,
Không cháy đỏ bừng lên,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
64. Ohārayitvā gihīvyañjanāni sañchannapatto yathāpārichatto, kāsāyavattho abhinikkhamitvā eko care khaggavisāṇakappo.
64. Sau khi trút bỏ các hình tướng tại gia, giống như cây san hô có lá được rũ bỏ, sau khi đã ra đi, mặc y ca-sa, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
64. Hãy trút bỏ, để lại,
Các biểu tượng gia chủ,
Như loại cây san hô,
Loại bỏ các nhành lá.
Ðã đắp áo cà sa,
Xuất gia bỏ thế tục,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
65. Rasesu gedhaṃ akaraṃ alolo anaññaposī sapadānacārī, kule kule appaṭibaddhacitto eko care khaggavisāṇakappo.
65. Không tạo sự tham đắm ở các vị nếm, không buông thả, không nuôi dưỡng kẻ khác, đi khất thực theo tuần tự từng nhà, có tâm không bị ràng buộc ở nhà này nhà nọ, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
65. Không tham đắm các vị,
Không tác động, không tham,
Không nhờ ai nuôi dưỡng,
Chỉ khất thực từng nhà.
Ðối với mọi gia đình,
Tâm không bị trói buộc,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
66. Pahāya pañcāvaraṇāni cetaso upakkilese vyapanujja sabbe, anissito chetvā snehadosaṃ eko care khaggavisāṇakappo.
66. Sau khi dứt bỏ năm pháp che lấp của tâm, sau khi xua đuổi hẳn tất cả các tùy phiền não, không bị lệ thuộc (tà kiến), sau khi cắt đứt thương yêu và sân hận, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
66. Từ bỏ năm triền cái
Che đậy trói buộc tâm,
Ðối với mọi kiết sử,
Hãy trừ khử, dứt sạch,
Không y cứ nương tựa,
Chặt đứt ái sân hận,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.’
67. Vipiṭṭhikatvāna sukhaṃ dukhañca pubbeva ca somanassadomanassaṃ, laddhānupekkhaṃ samathaṃ visuddhaṃ eko care khaggavisāṇakappo.
67. Sau khi đã bỏ lại sau lưng lạc và khổ, cùng với hỷ và ưu ngay trước đây, sau khi đạt được xả, sự vắng lặng (tứ thiền), và sự thanh tịnh (giải thoát), nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
67. Hãy xoay lưng trở lại
Ðối với lạc và khổ,
Cả đối với hỷ ưu,
Ðược cảm thọ từ trước,
Hãy chứng cho được xả,
An chỉ và thanh tịnh;
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
68. Āraddhaviriyo paramatthapattiyā alīnacitto akusītavutti, daḷhanikkamo thāmakhalūpapanno eko care khaggavisāṇakappo.
68. Có sự nỗ lực tinh tấn để đạt đến chân lý tuyệt đối, có tâm không thụ động, có sự thực hành không biếng nhác, có sự cố gắng bền bỉ, có được sức mạnh và năng lực, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
68. Tinh cần và tinh tấn,
Ðạt được lý chân đế,
Tâm không còn thụ động,
Không còn có biếng nhác,
Kiên trì trong cố gắng,
Dõng lực được sanh khởi,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
69. Paṭisallānaṃ jhānamariñcamāno dhammesu niccaṃ anudhammacārī, ādīnavaṃ sammasitā bhavesu eko care khaggavisāṇakappo.
69. Trong khi không bỏ phế việc ẩn cư tham thiền, là người thường xuyên thực hành thuận pháp đối với các pháp,[1] là người nhận chân được sự bất lợi trong các hữu, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
[1] Thực hành thuận pháp đối với các pháp (dhammesu anudhammacārī): thực hành pháp minh sát tùy thuận theo sự diễn biến của các pháp như là ngũ uẩn, v.v…, hoặc là hành tuần tự theo chín pháp siêu thế là bốn Đạo, bốn Quả, và Niết Bàn (SnA. i, 123).
69. Không từ bỏ độc cư,
Hạnh viễn ly thiền định,
Thường thường sống hành trì,
Tùy pháp trong các pháp.
Chơn chánh nhận thức rõ,
Nguy hiểm trong sanh hữu,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
70. Taṇhakkhayaṃ patthayaṃ appamatto ānelamūgo sutavā satīmā, saṅkhātadhammo niyato padhānavā eko care khaggavisāṇakappo.
70. Trong khi ước nguyện sự đoạn diệt tham ái, không xao lãng, không ngây ngô khờ khạo, có sự nghe nhiều, có niệm, đã hiểu rõ Giáo Pháp, được quả quyết, có sự nỗ lực, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
70. Mong cầu đoạn diệt ái,
Sống hạnh không phóng dật,
Không đần độn câm ngọng,
Nghe nhiều, giữ chánh niệm.
Các pháp được giác sát,
Quyết định, chánh tinh cần.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
71. Sīho va saddesu asantasanto vāto va jālamhi asajjamāno, padumaṃca toyena alippamāno eko care khaggavisāṇakappo.
71. Tựa như con sư tử không kinh hãi đối với các tiếng động, tựa như làn gió không bị dính mắc ở tấm lưới, tựa như đóa sen không bị vấy bẩn bởi nước, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
71. Như sư tử, không động,
An tịnh giữa các tiếng,
Như gió không vướng mắc,
Khi thổi qua màn lưới.
Như hoa sen không dính,
Không bị nước thấm ướt,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
72. Sīho yathā dāṭhabalī pasayha rājā migānaṃ abhibhuyyacārī, sevetha pantāni senāsanāni eko care khaggavisāṇakappo.
72. Tựa như con sư tử, có sức mạnh của các răng nanh, vua của các loài thú, có cuộc sống khuất phục và chế ngự (các con thú), nên lai vãng các trú xứ xa vắng, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
72. Giống như con sư tử,
Với quai hà hùng mạnh,
Bậc chúa của loài thú,
Sống chinh phục chế ngự.
Hãy sống các trú xứ,
Nhàn tịnh và xa vắng,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
73. Mettaṃ upekkhaṃ karuṇaṃ vimuttiṃ āsevamāno muditañca kāle, sabbena lokena avirujjhamāno eko care khaggavisāṇakappo.
73. Vào thời điểm đang rèn luyện từ, bi, hỷ, xả, và giải thoát, trong khi không bị tất cả thế gian gây trở ngại, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
73. Từ tâm, sống trú xả,
Bi tâm, hạnh giải thoát,
Sống hành trì thực hiện,
Hỷ tâm, cho đúng thời,
Không chống đối va chạm,
Với một ai ở đời.
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
74. Rāgañca dosañca pahāya mohaṃ sandāḷayitvāna saṃyojanāni, asantasaṃ jīvitasaṅkhayamhi eko care khaggavisāṇakappo.
74. Sau khi từ bỏ tham ái sân hận và si mê, sau khi tự phá tan các mối ràng buộc, người không kinh hãi về chặng cuối cùng của mạng sống, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
74. Ðoạn tận lòng tham ái,
Sân hận và si mê,
Chặt đứt và cắt đoạn,
Các kiết sử lớn nhỏ
Không có gì sợ hãi,
Khi mạng sống gần chung,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
75. Bhajanti sevanti ca kāraṇatthā
nikkāraṇā dullabhā ajja mittā,
attaṭṭhapaññā asuci manussā
eko care khaggavisāṇakappo.
75. Người ta thân cận và phục vụ có động cơ và chủ đích (lợi lộc), ngày nay những người bạn không có động cơ (lợi lộc) là khó đạt được, những người (chỉ) biết đến lợi ích của bản thân là người không trong sạch, nên sống một mình tựa như sừng của loài tê giác (chỉ có một).
75. Có những bạn vì lợi,
Thân cận và chung sống,
Những bạn không mưu lợi,
Nay khó tìm ở đời.
Người sáng suốt lợi mình,
Không phải người trong sạch,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng.
Khagaggavisāṇasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Sừng Tê Giác.
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda