Thánh Nhân Ký Sự Ii – Phẩm Ekavihārī

THÁNH NHÂN KÝ SỰ II

PHẨM EKAVIHĀRĪ

431. Ký Sự về Trưởng Lão Ekavihāriya

  1. Ở vào kiếp Bhadda này, trong số các vị đang thuyết giảng đã hiện khởi đấng cao quý tên Kassapa, thuộc dòng dõi, có danh tiếng vĩ đại, là thân quyến của đấng Phạm Thiên.
  2. Bậc như thế ấy đã sống không còn pháp chướng ngại, không cần sự nâng đỡ, có tâm ý sánh bằng bầu không gian, thường xuyên (trú vào) không tánh, thỏa thích ở vô tướng.
  3. Bậc Đại Bi, đấng Anh Hùng, rành rẽ về phương thức huấn luyện, có tâm không quyến luyến, lìa phiền não, không thân cận với gia đình và đồ chúng.
  4. 4634. Bị bận rộn trong những việc hữu ích cho những người khác, đấng Tế Độ Thế Gian ấy ngồi giữa đại chúng đang hướng dẫn chúng sanh luôn cả chư Thiên về Đạo Lộ đưa đến Niết Bàn, về việc làm khô cạn bãi lầy đưa đến cảnh giới (tái sanh), về pháp Bất Tử có phẩm vị tối thắng, cản ngăn sự già và sự chết.
  5. Thốt lên âm điệu của loài chim karavīka (ca-lăng-tầng-già), đấng Bảo Hộ, đức Như Lai, với âm thanh của Phạm Thiên đang tiếp độ những người có lối đi bị lầm lạc, không người hướng dẫn, ra khỏi chốn vô cùng khốn khổ.
  6. Trong lúc đấng Lãnh Đạo Thế Gian đang thuyết giảng Giáo Pháp không bợn nhơ, tôi đã nhìn thấy Ngài. Sau khi lắng nghe Giáo Pháp của Ngài, tôi đã xuất gia vào đời sống không gia đình.
  7. Và sau khi xuất gia, lúc bấy giờ trong khi suy nghĩ về Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, bị quấy rối bởi việc chung đụng nên tôi đã sống chỉ mỗi một mình ở trong khu rừng đáng yêu.
  8. Sự yên tịnh về thân của tôi trở thành nhân duyên chính yếu cho tôi có được sự yên tịnh ở tâm, có được sự nhìn thấy nỗi sợ hãi trong việc chung đụng.
  9. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  10. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  11. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekavihāriya[14] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekavihāriya là phần thứ nhất.

 

–ooOoo–

 

432. Ký Sự về Trưởng Lão Ekasaṃkhiya

  1. Đã có lễ hội ở cội Đại Bồ Đề của đức Thế Tôn Vipassī. Đám đông dân chúng đã cùng nhau đi đến và cúng dường cội Bồ Đề tối thượng.
  2. Tôi không nghĩ rằng bậc đạo sư nào có cội Bồ Đề được cúng dường như thế này lại là vị kém cỏi, Ngài phải là vị Phật tối thượng.
  3. Do đó, tôi đã cầm lấy chiếc tù và vỏ ốc và đã phục vụ cội cây Bồ Đề. Trong khi thổi (tù và) trọn cả ngày, tôi đã đảnh lễ cội Bồ Đề tối thượng.
  4. Hành động được thực hiện vào lúc cận kề cái chết đã đưa tôi đến thế giới chư Thiên. Cơ thể của tôi vừa ngã xuống là tôi sướng vui ở thế giới chư Thiên.[15]
  5. Có sáu mươi ngàn nhạc công luôn luôn hớn hở vui mừng hoan hỷ phục vụ tôi; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  6. Tôi đã là đức vua Sudassana bảy mươi mốt kiếp, là người chinh phục bốn phương, là vị chúa tể của vùng đất Jambu.
  7. Kế đó, có trăm loại nhạc cụ luôn luôn vây quanh tôi. Tôi thọ hưởng nghiệp quả của chính mình; điều này là quả báu của việc phục vụ.
  8. Nơi chốn nào tôi sanh lên, là bản thể Thiên nhân hay nhân loại, các chiếc trống luôn luôn vang lên đến tôi ngay cả khi (nhập thai) đi vào bụng mẹ.
  9. Sau khi phục vụ đấng Toàn Giác, sau khi thọ hưởng sự thành đạt, tôi đã đạt đến vị thế Bất Động là Niết Bàn, bình yên, bất tử.
  10. Kể từ khi tôi đã thực hiện việc làm ấy trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc cúng dường đức Phật.
  11. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  12. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  13. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ekasaṅkhiya[16] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ekasaṅkhiya là phần thứ nhì.

 

–ooOoo–

 

433. Ký Sự về Trưởng Lão Pāṭihīrasaññaka

  1. Khi ấy, đấng Chiến Thắng tên Padumuttara, vị thọ nhận các vật hiến cúng, đã đi vào thành phố cùng với một trăm ngàn vị có năng lực (A-la-hán).
  2. Trong khi các vị an tịnh như thế ấy đang đi vào thành phố, các châu báu đã phát sáng, đã có tiếng reo hò vào ngay lúc ấy.
  3. Trong khi đức Phật đang đi vào thành phố, do năng lực của đức Phật những chiếc trống đã vang lên dầu không được vỗ, các cây đàn vīṇā tự phát ra âm thanh.
  4. Tôi không nhìn thấy đức Phật tối thượng bậc Đại Hiền Trí Padumuttara. Và sau khi nhìn thấy điều kỳ diệu, tại nơi ấy tôi đã khiến tâm được tịnh tín.
  5. Ôi đức Phật! Ôi Giáo Pháp! Ôi sự thành tựu của bậc Đạo Sư chúng ta! Dầu không có tâm tư, các nhạc cụ tự chính mình phát ra âm thanh.”
  6. Kể từ khi tôi đã đạt được sự suy tưởng ấy trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc suy tưởng về đức Phật.
  7. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  8. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  9. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Pāṭihīrasaññaka[17] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Pāṭihīrasaññaka là phần thứ ba.

–ooOoo–

434. Ký Sự về Trưởng Lão Ñāṇatthavika

  1. Tôi đã nhìn thấy bậc Tối Thượng Nhân giống như là cây kaṇikāra được cháy sáng, như là cây đèn được chiếu sáng, như là kim loại vàng đang tỏa sáng.
  2. Sau khi xếp đặt túi nước, y phục vỏ cây, và bình đựng nước, tôi đã khoác tấm da dê một bên vai rồi đã ngợi ca đức Phật tối thượng rằng:
  3. Bạch đấng Đại Hiền Trí, trong khi hủy diệt điều tăm tối được che đậy bởi màng lưới si mê ấy, sau khi thể hiện ánh sáng trí tuệ, Ngài đã vượt qua.
  4. Bạch đấng Vô Thượng, xin Ngài hãy tiếp độ thế gian này bao gồm tất cả. Dầu cho đi khắp trái đất không có gì tương đương với trí tuệ của Ngài.
  5. Với trí tuệ ấy, đức Phật được gọi là ‘Đấng Toàn Tri.’ Bạch đấng Đại Hùng, con xin đảnh lễ đấng Toàn Tri không gì che lấp ấy.”
  6. (Kể từ khi) tôi đã ngợi ca đức Phật tối thượng trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc ngợi ca trí tuệ.
  7. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  8. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  9. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ñāṇatthavika[18] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ñāṇatthavika là phần thứ tư.

–ooOoo–

435. Ký Sự về Trưởng Lão Ucchukhaṇḍika

  1. Tôi đã là người gác cổng ở thành phố Bandhumatī. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, đấng Vô Nhiễm, bậc thông suốt về tất cả các pháp.
  2. Với tâm tịnh tín, với ý vui mừng, tôi đã cầm lấy khúc mía và đã dâng cúng đến đức Phật tối thượng, bậc Đại Ẩn Sĩ Vipassī..
  3. Kể từ khi tôi đã dâng cúng mía trước đây chín mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của khúc mía.
  4. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  5. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  6. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ucchukhaṇḍika[19] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ucchukhaṇḍika là phần thứ năm.

–ooOoo–

436. Ký Sự về Trưởng Lão Kalambadāyaka

  1. Bậc Tự Giác Ngộ tên Romasa ngụ ở trong vùng đồi núi. Được tịnh tín, tôi đã tự tay mình dâng lên Ngài bông hoa kalamba.
  2. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của bông hoa kalamba.
  3. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  4. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Kalambadāyaka[20] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Kalambadāyaka là phần thứ sáu.

–ooOoo–

437. Ký Sự về Trưởng Lão Ambāṭakadāyaka

  1. Sau khi nhìn thấy đức Phật, đấng Tự Chủ, bậc không bị đánh bại trong khu rừng, tôi đã cầm lấy trái cây ambāṭaka và đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ.
  2. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây ba mươi mốt kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
  3. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  4. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  5. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ambāṭakadāyaka[21] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ambāṭakadāyaka là phần thứ bảy.

–ooOoo–

438. Ký Sự về Trưởng Lão Harītakadāyaka

  1. Tôi đích thân mang lại các loại trái cây như trái harītaka, trái āmalaka, trái xoài, trái mận đỏ, trái vibhīṭaka, trái táo, trái bhallātaka, và trái billa.
  2. Tôi đã nhìn thấy bậc Hiền Trí là vị có thiền chứng, được thích thú về thiền, đã đi đến sườn núi. Bậc Đại Hiền Trí đang bị hành hạ bởi cơn bệnh, không có người thứ hai (phục vụ).
  3. Tôi đã cầm lấy trái harītaka và đã dâng cúng đến đấng Tự Chủ. Khi thuốc men vừa mới tác dụng, cơn bệnh đã lắng dịu ngay lập tức.
  4. Có sự khó chịu đã được loại trừ, đức Phật đã nói lời tùy hỷ rằng: “Do sự dâng cúng thuốc men, và do sự dứt hẳn cơn bệnh, …
  5. … mong rằng ngươi được sung sướng ở khắp mọi nơi dầu được trở thành vị Thiên nhân hay loài người hoặc ở sanh chủng khác, và bệnh hoạn chớ xảy đến cho ngươi.”
  6. Sau khi nói điều này, bậc Toàn Giác, đấng Tự Chủ, vị không bị đánh bại, bậc trí tuệ đã bay lên không trung như là chim thiên nga chúa ở trên bầu trời.
  7. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái harītaka đến đấng Tự Chủ, bậc Đại Ẩn Sĩ, cho đến kiếp sống này bệnh hoạn đã không xảy đến cho tôi.
  8. Lần sau cùng này của tôi là sự hiện hữu cuối cùng trong sự luân chuyển, tam minh đã được đắc chứng, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.
  9. Kể từ khi tôi đã dâng cúng thuốc men trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của thuốc men.
  10. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  11. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  12. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Harītakadāyaka[22] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Harītakadāyaka là phần thứ tám.

–ooOoo–

439. Ký Sự về Trưởng Lão Ambapiṇḍiya

  1. Khi ấy, tôi đã là con voi chúa có ngà dài như gọng xe, vững chải. Trong khi đi lang thang ở khu rừng bạt ngàn tôi đã nhìn thấy đấng Lãnh Đạo Thế Gian.
  2. Sau khi cầm lấy chùm trái xoài, tôi đã dâng cúng đến bậc Đạo Sư. Đấng Đại Hùng, bậc Lãnh Đạo Thế Gian Siddhattha đã thọ lãnh.
  3. Khi ấy, đấng Chiến Thắng đã thọ dụng trong lúc tôi đang trầm tư. Tại đó, sau khi làm cho tâm được tịnh tín, tôi đã đạt đến cõi trời Đẩu Suất.[23]
  4. Từ nơi ấy tôi đã mệnh chung, và tôi đã trở thành đấng Chuyển Luân Vương. Tôi thọ hưởng sự thành đạt theo đường lối thế ấy.
  5. Có tính khẳng quyết về sự nỗ lực, tôi được an tịnh, không còn mầm mống tái sanh. Sau khi biết toàn diện về tất cả các lậu hoặc, tôi sống không còn lậu hoặc.
  6. Kể từ khi tôi đã dâng cúng trái cây trước đây chín mươi bốn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng trái cây.
  7. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  8. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  9. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Ambapiṇḍiya[24] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Ambapiṇḍiya là phần thứ chín.

–ooOoo–

440. Ký Sự về Trưởng Lão Jambuphaliya

  1. Đức Phật Padumuttara, vị đang nắm giữ danh vọng tối thượng, bậc Trưởng Thượng của thế gian như thế ấy đang đi đó đây để khất thực.
  2. Sau khi thâu hoạch trái cây đầu mùa, với tâm ý trong sạch tôi đã dâng cúng đến đấng Đạo Sư, bậc Anh Hùng xứng đáng sự cúng dường.
  3. Bạch đấng Chúa Tể của loài người, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Nhân Ngưu, nhờ vào nghiệp ấy con đã từ bỏ sự hơn thua và đã đạt được vị thế Bất Động.”
  4. Kể từ khi tôi đã dâng cúng vật thí trước đây một trăm ngàn kiếp, tôi không còn biết đến khổ cảnh; điều này là quả báu của việc dâng cúng vật đầu mùa.
  5. Các phiền não của tôi đã được thiêu đốt, tất cả các hữu đã được xóa sạch. Sau khi cắt đứt sự trói buộc như là con voi đực (đã được cởi trói), tôi sống không còn lậu hoặc.
  6. Quả vậy, tôi đã thành công mỹ mãn, đã thành tựu tam minh, đã thực hành lời dạy đức Phật trong sự hiện tiền của đức Phật tối thượng.
  7. Bốn (tuệ) phân tích, tám giải thoát, và sáu thắng trí đã được (tôi) đắc chứng; tôi đã thực hành lời dạy của đức Phật.

Đại đức trưởng lão Jambuphaliya[25] đã nói lên những lời kệ này như thế ấy.

Ký sự về trưởng lão Jambuphaliya là phần thứ mười.

–ooOoo–

Phần Tóm Lược

Vị trưởng lão sống một mình, vị (thổi) tù và vỏ ốc, vị (tưởng đến) điều kỳ diệu, vị ngợi ca (đức Phật), vị có khúc mía, vị dâng bông hoa kalamba, vị dâng trái ambāṭaka, vị (dâng) trái cây harītaka, vị có chùm xoài, vị dâng trái mận đỏ là thứ mười. Và các câu kệ đã được tính đếm bởi các bậc trí là tám mươi sáu câu kệ.

Phẩm Ekavihārī là phẩm thứ bốn mươi bốn.

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Thánh Nhân Ký Sự Tập II” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda