Tiểu Bộ – Kinh Tập – Iii. Mahāvaggo – Đại Phẩm (2)
TAM TẠNG PĀLI – VIỆT
KHUDDAKANIKĀYA – TIỂU BỘ
SUTTANIPĀTAPĀḶI – KINH TẬP
III. MAHĀVAGGO – ĐẠI PHẨM
III. MAHĀVAGGO – ĐẠI PHẨM (tiếp theo)
Buddha Jayanti Tripitaka Series (BJTS) – Tạng Sri Lanka
Lời tiếng Việt: (văn xuôi) Tỳ khưu Indacanda
Lời tiếng Việt: (văn vần) HT. Thích Minh Châu
8. SALLASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
8. KINH MŨI TÊN (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
8. KINH MŨI TÊN (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
577. Animittamanaññātaṃ maccānaṃ idha jīvitaṃ, kasirañca parittañca tañca dukkhena saññutaṃ.
577. Mạng sống của loài người ở đây là không có sự báo hiệu, không được biết chắc, khó khăn, ngắn ngủi, và nó bị gắn liền với khổ đau.
574. Sinh mạng của loài Người,
Ở đời không ai biết,
Không tướng, nhiều phiền toái,
Nhỏ nhoi, liên hệ khổ.
578. Na hi so upakkamo atthi yena jātā na mīyare, jarampi patvā maraṇaṃ evaṃdhammā hi pāṇino.
578. Thật sự không có phương thức nào khiến cho những kẻ đã được sanh ra (sẽ) không chết; sau khi đạt đến tuổi già (hay chưa đạt đến) cũng sẽ có cái chết, bởi vì các sinh mạng có quy luật là như vậy.
575. Không có sự gắng nào,
Khiến sống thoát khỏi chết,
Sau khi già là chết,
Pháp hữu tình là vậy.
579. Phalānamiva pakkānaṃ pāto patanato bhayaṃ, evaṃ jātānamaccānaṃ niccaṃ maraṇato bhayaṃ.
579. Tựa như nỗi sợ hãi về sự rơi rụng vào buổi sáng của những trái cây đã chín, nỗi sợ hãi thường xuyên về sự chết của những con người đã được sanh ra là như vậy.
576. Như các trái chín muồi,
Có sợ bị rơi sớm,
Cũng vậy, người được sanh,
Thường có sợ bị chết.
580. Yathāpi kumbhakārassa katā mattikabhājanā, sabbe bhedanapariyantā evaṃ maccāna jīvitaṃ.
580. Cũng giống như bát đĩa bằng đất sét đã được làm ra bởi người thợ gốm, tất cả có sự bể vỡ là chặng cuối, mạng sống của loài người là như vậy.
577. Như người thợ làm ghè
Làm chén bát đất sét,
Cuối cùng, bể tất cả,
Mạng sống người là vậy.
581. Daharā ca mahantā ca ye bālā ye ca paṇḍitā, sabbe maccuvasaṃ yanti sabbe maccuparāyanā.
581. Những ai ngu si và những ai sáng suốt, các trẻ con và những người lớn, tất cả đều sa vào quyền lực của thần chết, tất cả đều có sự chết là nơi cuối cùng.
578. Trẻ tuổi và lớn tuổi,
Người ngu và kẻ trí,
Tất cả đi đến chết,
Cuối cùng rồi cũng chết.
582. Tesaṃ maccuparetānaṃ gacchataṃ paralokato, na pitā tāyate puttaṃ ñātī vā pana ñātake.
582. Khi những người ấy đã bị chế ngự bởi thần chết và đang đi đến thế giới khác, người cha không thể bảo vệ con trai, hoặc ngay cả thân nhân không thể bảo vệ các quyến thuộc.
579. Những ai chết chi phối,
Ði qua đến đời sau,
Cha không cứu được con,
Hay bà con cứu nhau.
583. Pekkhataṃ yeva ñātīnaṃ passa lālapataṃ puthu, ekameko ca maccānaṃ govajjho viya nīyati.
583. Ngươi hãy nhìn xem,[1] trong số các thân quyến thật sự đang xem xét, đang than khóc thê thảm, từng người một trong số loài người bị đưa đi, ví như loài bò là để giết thịt.
[1] Theo Chú Giải, đức Phật có nam cư sĩ là người hộ độ. Người này có đứa con trai vừa mới mất, và vì sầu muộn nên không dùng vật thực đã bảy ngày. Thương tình, đức Phật đã ngự đến nhà nam cư sĩ ấy để giáo hóa (SnA. ii, 457).
580. Hãy xem, các bà con
Ðứng nhìn và than khóc,
Từng người, đi đến chết,
Như bò mang đi giết,
584. Evamabbhāhato loko maccunā ca jarāya ca, tasmā dhīrā na socanti viditvā lokapariyāyaṃ.
584. Thế gian bị hành hạ như vậy bởi cái chết và sự già; vì thế sau khi biết được bản thể của thế gian các bậc sáng trí không sầu muộn.
581. Như vậy, thế giới này
Bị già chết chi phối,
Do vậy, bậc nhiều trí,
Biết đời, nên không sầu
585. Yassa maggaṃ na jānāsi āgatassa gatassa vā, ubho ante asampassaṃ niratthaṃ paridevasi.
585. Ngươi không biết lộ trình đi đến (sanh) hoặc ra đi (chết) của kẻ ấy, trong khi không nhìn thấy cả hai chặng, ngươi than vãn một cách vô ích.
582. Ai không biết con đường,
Ðường đến và đuờng đi,
Do không thấy hai ngã,
Than khóc, không lợi ích.
586. Paridevayamāno ce kañci atthaṃ udabbahe, sammūḷho hiṃsamattānaṃ kayirā cenaṃ vicakkhaṇo.
586. Nếu trong lúc than vãn, trong lúc hành hạ bản thân, kẻ bị mê muội có thể tạo nên lợi ích nào đó, thì người khôn khéo cũng nên làm điều ấy.
583. Nếu thật sự than khóc,
Ðem lại lợi ích gì,
Kẻ ngu tự hại mình,
Người có mắt sẽ làm.
587. Na hi runtena sokena santiṃ pappoti cetaso, bhīyassuppajjate dukkhaṃ sarīraṃ upahaññati.
587. Hiển nhiên với việc khóc lóc, với sự sầu muộn, thì không đạt được sự an tịnh của tâm, khổ đau sanh lên cho người này còn nhiều hơn; cơ thể của người này bị tổn hại.
584. Không với sầu, nước mắt,
Khiến nội tâm an tịnh,
Khổ càng tăng trưởng thêm,
Thân càng bị gia hại.
588. Kiso vivaṇṇo bhavati hiṃsamattānamattanā, na tena petā pālenti niratthā paridevanā.
588. Trong khi tự mình hãm hại mình, (người này) trở nên gầy ốm, xuống sắc, những người đã quá vãng không được trợ giúp do việc ấy; sự than vãn là không có lợi ích.
585. Ốm yếu, sắc da tái,
Tự mình hại chính mình,
Kẻ chết không được hộ,
Than khóc thật vô ích.
589. Sokamappajahaṃ jantu bhiyyo dukkhaṃ nigacchati, anutthunanto kālakataṃ sokassa vasamanvagū.
589. Trong khi không dứt bỏ sầu muộn, con người đọa vào khổ đau nhiều hơn nữa; trong khi khóc lóc kẻ đã quá vãng, con người chịu sự tác động của sầu muộn.
586. Chúng sanh không bỏ sầu,
Càng gặp nhiều đau khổ,
Càng rên khóc kẻ chết,
Càng bị sau chi phối.
590. Aññepi passa gamine yathākammūpage nare, maccuno vasamāgamma phandantevidha pāṇino.
590. Hãy nhìn xem những kẻ khác cũng có sự ra đi, những con người đi theo nghiệp lực, các sinh mạng ở nơi này quả nhiên run rẩy sau khi rơi vào quyền lực của thần chết.
587. Hãy xem các người khác
Ði theo hạnh nghiệp mình,
Rơi vào giới thần chết,
Hữu tình đầy hoảng sợ.
591. Yena yena hi maññanti tato taṃ hoti aññathā, etādiso vinābhāvo passa lokassa pariyāyaṃ.
591. Dầu họ suy nghĩ thế này thế khác, kết quả từ đó trở nên khác hẳn. Việc chia cách là như thế ấy; ngươi hãy nhìn xem bản thể của thế gian.
588. Loài Người còn mong ước,
Thế này hay thế khác,
Nhưng sự việc xảy ra,
Hoàn toàn thật sai khác,
Như vậy tánh không có,
Xem định tánh của đời.
592. Api ce vassasataṃ jīve bhīyo vā pana mānavo, ñātisaṅghā vinā hoti jānāti idha jīvitaṃ.
592. Thậm chí nếu người trai trẻ có thể sống một trăm năm, hoặc hơn thế nữa, rồi cũng (sẽ) tách rời khỏi tập thể thân quyến, cũng (sẽ) từ bỏ mạng sống ở nơi này.
589. Nếu loài Người sống được,
Sống hơn một trăm năm,
Rồi không có bà con,
Ở đây, bỏ mạng sống.
593. Tasmā arahato sutvā vineyya paridevitaṃ, petaṃ kālakataṃ disvā na so labbhā mayā iti.
593. Bởi thế, sau khi lắng nghe (lời giảng dạy của) bậc A-la-hán, nên chừa bỏ việc than vãn. Sau khi nhìn thấy người quá vãng đã lìa đời, (nên biết rằng) ‘Người ấy không thể nào (trở lại) với ta.’
590. Do vậy, sau khi nghe
Bậc La-hán thuyết giảng,
Hãy nhiếp phục than van,
Khi thấy kẻ bị chết,
Hãy suy nghĩ như sau,
Ta không còn vị ấy.
594. Yathā saraṇamādittaṃ vārinā parinibbuto, evampi dhīro sappañño paṇḍito kusalo naro, khippamuppatitaṃ sokaṃ vāto tūlaṃva dhaṃsaye.
594. Giống như người có thể dùng nước dập tắt chỗ ở bị đốt cháy, cũng tương tự như thế, người can đảm, có trí tuệ, sáng suốt, thiện xảo có thể mau chóng xua tan sự sầu muộn đã được sanh khởi, tựa như làn gió thổi bay sợi bông gòn.
591. Như nhà lửa bị cháy,
Nhờ nước, lửa dập tắt,
Cũng vậy, bậc Hiền trí,
Có tuệ trí, thiện xảo,
mau chóng nhiếp phục sầu,
Như bông gió thổi bay.
595. Paridevaṃ pajappañca domanassañca attano, attano sukhamesāno abbahe sallamattano.
595. Người tầm cầu sự an lạc cho bản thân nên nhổ lên mũi tên của mình, sự than vãn, sự khởi tham muốn, và nỗi ưu phiền của bản thân.
592. Ai tự tìm hạnh phúc,
Hãy tự mình rút tên,
Mũi tên là than khóc,
Tham cầu tư ưu sầu.
596. Abbūḷhasallo asito santiṃ pappuyya cetaso, sabbasokaṃ atikkanto asoko hoti nibbutoti.
596. Người có mũi tên đã được nhổ lên, không còn lệ thuộc, sau khi đã đạt được sự an tịnh của tâm, trong khi vượt qua mọi sầu muộn, trở thành không còn sầu muộn, được tịch tịnh.
593. Ai đã rút mũi tên,
Không nương tựa nhờ cậy,
Tâm vị ấy đạt được,
Sự an lành an tịnh,
Vượt khỏi mọi ưu sầu,
Tâm không sầu, tịch tịnh.
Sallasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Mũi Tên.
9. VĀSEṬṬHASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
9. KINH VĀSEṬṬHA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
9. KINH VÀSETTHA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
(Kinh này giống với kinh Vàsettha, số 98 của Trung Bộ Kinh, Tập II)
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.
Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Icchānaṅgala, ở khu rừng Icchānaṅgala.
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala.
Tena kho pana samayena sambahulā abhiññātā brāhmaṇamahāsāḷā icchānaṅgale paṭivasanti, seyyathīdaṃ: Caṅkī brāhmaṇo tārukkho brāhmaṇo pokkharasāti brāhmaṇo jānussoni brahmaṇo todeyyo brāhmaṇo aññe ca abhiññātā abhiññātā brāhmaṇamahāsāḷā. Athakho vāseṭṭhabhāradvājānaṃ māṇavānaṃ jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamānānaṃ anuvicaramānānaṃ ayamantarākathā udapādi: kathaṃ bho brāhmaṇo hotīti.
Vào lúc bấy giờ, nhiều Bà-la-môn nổi tiếng và giàu có cư ngụ tại Icchānaṅgala, như là: Bà-la-môn Caṅkī, Bà-la-môn Tārukkha, Bà-la-môn Pokkharasāti, Bà-la-môn Jānussoni, Bà-la-môn Todeyya, và nhiều Bà-la-môn vô cùng nổi tiếng và giàu có khác nữa. Khi ấy, trong lúc hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đang đi kinh hành, đang đi tản bộ cho thư giãn chân cẳng, có câu chuyện trao đổi này đã khởi lên giữa hai vị ấy: “Này bạn, như thế nào là vị Bà-la-môn?”
Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếng và giàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: “Thế nào là một vị Bà-la-môn?”
Bhāradvājo māṇavo evamāha: Yato kho bho ubhato sujāto hoti mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena ettāvatā kho brāhmaṇo hotīti.
Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja đã nói như vầy: “Này bạn, khi nào thật sự là người được thiện sanh ở cả hai bên, phía mẹ và phía cha, có sự thụ thai được hoàn toàn trong sạch cho đến tổ tiên nội ngoại đời thứ bảy, không bị khinh bỉ, không bị chỉ trích về phương diện nòi giống; đến chừng ấy là Bà-la-môn.”
Thanh niên Bharadvaja nói như sau:
Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn.
Vāseṭṭho māṇavo eva māha: Yato kho bho sīlavā ca hoti vattasampanno ca ettāvatā kho brāhmaṇo hotīti.
Thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã nói như vầy: “Này bạn, khi nào thật sự là người có giới và đầy đủ tánh hạnh; đến chừng ấy là Bà-la-môn.”
Thanh niên Vasettha nói như sau:
— Nếu ai có giới hạnh và thành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn.
Neva kho asakkhi bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhaṃ māṇavaṃ saññapetuṃ, na pana asakkhi vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṃ māṇavañca saññapetuṃ.
Thanh niên Bhāradvāja đã không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha, và thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha cũng đã không thể thuyết phục thanh niên Bhāradvāja.
Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha,
Và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja.
Atha kho vāseṭṭho māṇavo bhāradvājaṃ māṇavaṃ āmantesi: Ayaṃ kho6 bhāradvāja samaṇo gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe, taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato: Itipi —pe— buddho bhagavāti. Āyāma bho bhāradvāja, yena samaṇo gotamo tenupasaṅkamissāma, upasaṅkamitvā samaṇaṃ gotamaṃ etamatthaṃ pucchissāma, yathā no samaṇo gotamo vyākarissati tathā naṃ dhāressāmāti.
Khi ấy, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã bảo thanh niên Bhāradvāja rằng: “Này Bhāradvāja, chắn chắn là vị Sa-môn Gotama này, con trai dòng Sakya, từ dòng dõi Sakya đã xuất gia, ngự tại Icchānaṅgala, ở khu rừng Icchānaṅgala. Hơn nữa, về ngài Gotama ấy có tiếng đồn tốt đẹp đã được lan rộng ra như vầy: ‘—như trên— Phật, Thế Tôn.’ Này bạn Bhāradvāja, hãy đến. Chúng ta sẽ đi đến gặp Sa-môn Gotama, sau khi đến chúng ta sẽ hỏi Sa-môn Gotama về ý nghĩa này. Sa-môn Gotama sẽ trả lời chúng ta thế nào thì chúng ta sẽ ghi nhận điều ấy như thế ấy.”
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja:
— Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: “Ðây là Thế Tôn… Phật, Thế Tôn”. Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì.
Evaṃ bhoti kho bhāradvājo māṇavo vāseṭṭhassa māṇavassa paccassosi.
“Này bạn, như vậy đi.” Thanh niên Bà-la-môn Bhāradvāja đã đáp lại thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha.
— Thưa vâng.
Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha.
Atha kho vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu, upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu sammodanīyaṃ kathaṃ sārāṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho vāseṭṭho māṇavo bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:
Sau đó, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha đã nói với đức Thế Tôn bằng những lời kệ này:
Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn:
597. Anuññātapaṭiññātā tevijjā mayamasma bho, ahaṃ pokkharasātissa tārukkhassāyaṃ māṇavo.
597. “Thưa ngài, chúng tôi tinh thông ba tập Vệ Đà, đã được truyền thụ và đã được công nhận. Tôi là (học trò) của Pokkharasāti, và thanh niên này là (học trò) của Tārukkha.
Chúng con cả hai người, Ðược tôn xưng, tự nhận,
Là những bậc thông thái
Cả ba tập Vệ-đà.
Con là đệ tử Ngài,
Pokkharasati,
Còn vị thanh niên này,
Ðệ tử Tarukkha.
598. Tevijjānaṃ yadakkhātaṃ tatra kevalino ’sma se, padakā’sma veyyākaraṇā jappe ācariyasādisā.
598. Điều nào đã được thuyết giảng bởi các vị tinh thông ba tập Vệ Đà, chúng tôi đã được hoàn hảo về lãnh vực ấy. Chúng tôi là nhà ngữ học, nhà văn phạm, tương đương với các vị thầy về sự hiểu biết.
Ba Vệ-đà nói gì,
Chúng con đều thông đạt,
Văn cú và văn phạm,
Chúng con đều thấu hiểu,
Thuyết giảng và giải thích,
Thật giống bậc Ðạo sư.
599. Tesaṃ no jātivādasmiṃ vivādo atthi gotama, jātiyā brāhmaṇo hoti bhāradvājo iti bhāsati, ahañca kammanā brūmi evaṃ jānāhi cakkhuma.
599. Thưa ngài Gotama, giữa chúng tôi đây có sự tranh cãi về đề tài nòi giống: ‘Bà-la-môn là do nòi giống,’ Bhāradvāja nói như thế; còn tôi nói là do hành động. Thưa bậc Hữu Nhãn, xin ngài nhận biết như vậy.
Tôn giả Gotama,
Giữa hai người chúng con
Có sự tranh luận này,
Về huyết thống thọ sanh.
Bharadvaja nói:
“Chính do sự thọ sanh”.
Con nói: “Do hành động,
Mới thành Bà-la-môn”.
Mong bậc có Pháp nhãn,
Hiểu cho là như vậy.
600. Te na sakkoma saññapetuṃ aññamaññaṃ mayaṃ ubho, bhagavantaṃ puṭṭhumāgamma sambuddhaṃ iti vissutaṃ.
600. Cả hai chúng tôi đây không thể thuyết phục lẫn nhau, và đã đi đến để hỏi đức Thế Tôn, vị được biết tiếng là ‘bậc Toàn Giác.’
Cả hai người chúng con,Không thể thuyết phục nhau.
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Chánh Giác tôn xưng.
601. Candaṃ yathā khayātītaṃ pecca pañjalikā janā, vandamānā namassanti evaṃ lokasmi gotamaṃ.
601. Giống như những người tiến đến, tay chắp lại, nghiêng mình đảnh lễ mặt trăng đã qua thời kỳ khuyết (đang tròn dần), tương tự như vậy chúng tôi nghiêng mình đảnh lễ đức Gotama ở thế gian.
Như trăng được tròn đầy,Quần chúng đến chấp tay,
Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng.
Cũng vậy, ở trong đời,
Quần chúng đến đảnh lễ,
Gotama Tôn giả.
602. Cakkhuṃ loke samuppannaṃ mayaṃ pucchāma gotamaṃ, jātiyā brāhmaṇo hoti udāhu bhavati kammanā, ajānataṃ no pabrūhi yathā jānemu brāhmaṇaṃ.
602. Chúng tôi hỏi đức Gotama, bậc đã thành tựu con mắt ở thế gian rằng: ‘Do nòi giống là Bà-la-môn, hay trở thành (Bà-la-môn) là do hành động? Xin ngài hãy nói lên cho chúng tôi, những người không biết, nhờ vậy chúng tôi có thể biết được về vị Bà-la-môn.”
Chúng con đến hỏi Ngài,
Bậc Pháp nhãn thế gian,
Bà-la-môn do sanh,
Hay chính do hành động?
Chúng con không được biết,
Hãy nói chúng con biết.
603. Tesaṃ vohaṃ vyakkhissaṃ (vāseṭṭhāti bhagavā) anupubbaṃ yathātathaṃ, jātivibhāgaṃ pāṇānaṃ aññamaññā hi jātiyo.
603. (Đức Thế Tôn nói “Này Vāseṭṭha,) Ta sẽ giải thích cho các ngươi đây sự phân loại về nòi giống của các loài sinh vật một cách tuần tự, đúng theo bản thể; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha,
Ta trả lời cho Ông,
Thuận thứ và như thật,
Sự phân loại do sanh,
Của các loại hữu tình,
Chính do sự sanh đẻ,
Do sanh, có dị loại.
604. Tiṇarukkhepi jānātha na cāpi paṭijānare, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
604. Các ngươi hãy nhận biết về cỏ và cây cối. Dầu chúng không cho biết (về nòi giống), đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem cỏ và cây,
Dầu chúng không nhận thức,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
605. Tato kīṭe paṭaṅge ca yāva kuntakipillike, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
605. Kế đến, (hãy nhận biết) về các loại côn trùng, và các loại châu chấu, cho đến các loại kiến, mối, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem loại côn trùng,
Bướm đêm, các loại kiến,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
606. Catuppade pi jānātha khuddake ca mahallake, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
606. Các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài bốn chân, nhỏ bé và to lớn, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem loại bốn chân,
Loại nhỏ và loại lớn,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
607. Pādudare’pi jānātha urage dīghapiṭṭhike, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
607. Các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài rắn, về các loài bò sát có lưng dài, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem loài bò sát,
Loại rắn, loại lưng dài,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
608. Tato macche’pi jānātha odake vārigocare, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo,
608. Kế đến, các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài cá, về các loài thủy tộc, sống ở trong nước, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước,
Chúng có tướng thọ sanh,
Da sanh, có dị loại.
609. Tato pakkhīpi jānātha pattayāne vihaṅgame, liṅgaṃ jātimayaṃ tesaṃ aññamaññā hi jātiyo.
609. Kế đến, các ngươi cũng hãy nhận biết về các loài chim, về các loài có sự di chuyển bằng cặp cánh, đi lại ở không trung, đặc điểm của chúng tạo nên nòi giống; chính các sự khác biệt là các nòi giống.
Hãy xem các loại chim,
Loại có cánh trên trời,
Chúng có tướng thọ sanh,
Do sanh, có dị loại.
610. Yathā etāsu jātīsu liṅgaṃ jātimayaṃ puthu, evaṃ natthi manussesu liṅgaṃ jātimayaṃ puthu.
610. Giống như ở các nòi giống này, đặc điểm tạo nên nòi giống là đa dạng, còn đặc điểm tạo nên nòi giống ở loài người thì không đa dạng như vậy.
Tùy theo sự thọ sanh,
Chúng có tướng tùy sanh.
Trong thế giới loài Người,
Tướng sanh không có nhiều.
611. Na kesehi na sīsena na kaṇṇehi na akkhīhi na mukhena na nāsāya na oṭṭhehi bhamūhi vā.
611. Không phải bởi mái tóc, không phải bởi đầu, không phải bởi các tai, không phải bởi các con mắt, không phải bởi miệng, không phải bởi mũi, không phải bởi đôi môi, hoặc bởi cặp lông mày.
Không ở đầu mái tóc,
Không ở tai, ở mắt,
Không ở miệng, ở mũi,
Không ở môi, ở mày,
612. Na gīvāya na aṃsehi na udarena na piṭṭhiyā, na yoniyā na urasā na sambādhe na methune.
612. Không phải do cổ, không phải do hai vai, không phải do bụng, không phải do lưng, không phải do tử cung, không phải do bộ ngực, không phải ở vật kín (nữ căn), không phải ở tinh hoàn.
Không ở cổ, ở nách,
Không ở bụng, ở lưng,
Không ở ngực, ở vú,
Không âm hộ, hành dâm.
613. Na hatthehi na pādehi nāṅgulīhi nakhehi vā, na jaṅghāhi na ūrūhi na vaṇṇena sarena vā, liṅgaṃ jātimayaṃ neva yathā aññāsu jātīsu.
613. Không phải bởi hai tay, không phải bởi hai chân, không phải bởi các ngón hoặc bởi các móng (tay chân), không phải bởi các bắp đùi, không phải bởi các bắp vế, không phải bởi màu da, hoặc bởi giọng nói, đặc điểm không tạo nên nòi giống (ở loài người) như là ở các nòi giống khác.
Không ở tay, ở chân,
Không ở ngón, ở móng,
Không ở cổ chân, vế,
Không ở sắc, ở tiếng.
Không tướng, do tùy sanh,
Tùy sanh, loại sai khác.
614. Paccattaṃ ca sarīresu manussesvetaṃ na vijjati, vohārañca manussesu samaññāya pavuccati.
614. Tính chất khác biệt này ở các (phần) thân thể không tìm thấy ở loài người. Và cách gọi thông dụng ở loài người được nói lên là do sự định đặt.
Trên tự thân con người,
Không có gì đặc biệt.
Chỉ tùy theo danh xưng,
Loài Người được kêu gọi.
615. Yo hi koci manussesu gorakkhaṃ upajīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi kassako so na brāhmaṇo.
615. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng việc chăn giữ bò, kẻ ấy là nông dân không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ðối người tự sinh sống.
Chăn bò, lo ruộng đất,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nông phu,
Không phải Bà-la-môn.
616. Yo hi koci manussesu puthu sippena jīvati, vaṃ vāseṭṭha jānāhi sippiko so na brāhmaṇo.
616. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng nghề nghiệp khác nhau, kẻ ấy là thợ thuyền không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống theo nghề nghiệp,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là công thợ,
Không phải Bà-la-môn.
617. Yo hi koci manussesu vohāraṃ upajīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi vāṇijo so na brāhmaṇo.
617. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng việc mua bán, kẻ ấy là thương gia không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống nghề buôn bán,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là thương nhân,
Không phải Bà-la-môn.
618. Yo hi koci manussesu parapessena jīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi pessiko so na brāhmaṇo.
618. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng việc hầu hạ người khác, kẻ ấy là tôi tớ không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống hầu hạ người,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nô bộc,
Không phải Bà-la-môn.
619. Yo hi koci manussesu adinnaṃ upajīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi coro eso na brāhmaṇo.
619. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng vật không được cho, kẻ ấy là trộm cướp không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là kẻ trộm,
Không phải Bà-la-môn.
620. Yo hi koci manussesu issatthaṃ upajīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi yodhājīvo na brāhmaṇo.
620. Bởi vì kẻ nào ở loài người nuôi sống bằng thuật bằng thuật bắn cung, kẻ ấy là chiến sĩ không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống nghề cung tên,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là nhà binh,
Không phải Bà-la-môn.
621. Yo hi koci manussesu porohiccena jīvati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi yājako so na brāhmaṇo.
621. Bởi vì kẻ nào ở loài người sinh sống bằng việc tế lễ, kẻ ấy là người cống hiến không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống nghề tế tự,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là tế quan,
Không phải Bà-la-môn.
622. Yo hi koci manussesu gāmaṃ raṭṭhañca bhuñjati, evaṃ vāseṭṭha jānāhi rājā eso na brāhmaṇo.
622. Bởi vì kẻ nào ở loài người hưởng thụ làng mạc và xứ sở, kẻ ấy là nhà vua không phải Bà-la-môn, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.
Ai sống giữa loài Người,
Thọ hưởng làng, quốc độ,
Vasettha hãy biết,
Kẻ ấy là vua chúa,
Không phải Bà-la-môn.
623. Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi yonijaṃ mattisambhavaṃ, bhovādi nāma so hoti sace hoti sakiñcano, akiñcanaṃ anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
623. Và Ta không gọi là Bà-la-môn với kẻ đã được sanh ra từ tử cung (của nữ Bà-la-môn), có sự xuất thân theo người mẹ, kẻ ấy được gọi là ‘người có sự xưng hô với từ Ông’ nếu kẻ ấy có sở hữu gì đó. Còn vị không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Và Ta không có gọi,
Kẻ ấy Bà-la-môn.
Chỉ vì do thọ sanh,
Dầu vị ấy cao sang,
Dầu vị ấy giàu có,
Nhưng còn ham thế lợi.
Không tham lam thế lợi,
Không chấp thủ sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
624. Sabbasaṃyojanaṃ chetvā yo ve na paritassati, saṅgātigaṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
624. Thật vậy, người nào đã cắt đứt tất cả ràng buộc, không run sợ, đã vượt qua các sự dính líu, không còn bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Vị đoạn tận kiết sử,
Không ai không sợ hãi,
Siêu việt mọi chấp trước,
Thoát ly các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
625. Chetvā naddhiṃ varattañca sandānaṃ sahanukkamaṃ, ukkhittapalighaṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
625. Người đã cắt đứt dây buộc (sân hận), dây trói (tham ái), dây thừng (62 tà kiến), cùng với vật phụ tùng (các pháp tiềm ẩn), đã nâng lên thanh chắn (vô minh), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Cắt dây thừng, dây ách,
Dây cương, cùng dây trói,
Quăng đi cây chắn ngang,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Bậc sáng suốt, giác ngộ,
Chánh danh Bà-la-môn.
626. Akkosaṃ vadhabandhañca aduṭṭho yo titikkhati,
khantībalaṃ balānīkaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
626. Người nào chịu đựng lời khiển trách, sự trừng phạt và giam cầm, mà không sân hận, người có kham nhẫn là sức mạnh, có sức mạnh là quân đội, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.Ai không lỗi, chịu đựng,
Nhiếc mắng cùng đánh trói,
Trang bị với nhẫn lực,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
627. Akkodhanaṃ vatavantaṃ sīlavantaṃ anussadaṃ, dantaṃ antimasārīraṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
627. Người không nóng giận, có sự hành trì, có giới, không nhiễm dục vọng, đã được rèn luyện, có thân xác cuối cùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Không phẫn nộ, giữ luật,
Có giới hạnh không kiêu,
Nhiếp phục, thân tối hậu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
628. Vāri pokkharapatteva āraggeriva sāsapo, yo na lippati kāmesu tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
628. Ví như nước ở lá sen, ví như hột cải ở đầu mũi kim, người nào không nhiễm bẩn trong các dục, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Như nước trên lá sen,
Hột cải trên đỉnh nhọn,
Không tham luyến dục vọng,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
629. Yo dukkhassa pajānāti idh’ eva khayamattano, pannabhāraṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
629. Người nào nhận biết sự diệt trừ khổ đau của bản thân ngay tại chỗ này, đã đặt xuống gánh nặng, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận,
Gánh nặng được đặt xuống,
Xa lìa các hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
630. Gambhīrapaññaṃ medhāviṃ maggāmaggassa kovidaṃ, uttamatthaṃ anuppattaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
630. Người có tuệ thâm sâu, thông minh, rành rẽ về Đạo Lộ và không phải Đạo Lộ, đã đạt đến mục đích tối thượng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo,
Ðích tối thượng đạt được,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
631. Asaṃsaṭṭhaṃ gahaṭṭhehi anāgārehi cūbhayaṃ, anokasāriṃ appicchaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
631. Người không gần gũi với cả hai hạng: những người tại gia và những bậc xuất gia, sống không trú xứ, ít ham muốn, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai không còn liên hệ,
Cả tại gia, xuất gia,
Không nhà trú, thiểu dục,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
632. Nidhāya daṇḍaṃ bhūtesu tasesu thāvaresu ca, yo na hanti na ghāteti tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
632. Sau khi bỏ xuống gậy gộc đối với các chúng sanh di chuyển và đứng yên, người nào không giết hại, không bảo giết hại, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Bỏ gậy đối chúng sanh,
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh,
Không giết, không hại ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
633. Aviruddhaṃ viruddhesu attadaṇḍesu nibbutaṃ, ādānesu anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
633. Người không thù nghịch giữa những kẻ thù nghịch, tịnh lặng giữa những kẻ có gậy gộc, không cố chấp giữa những kẻ cố chấp, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Giữa kẻ thù, không thù,
Giữa hung bạo, an tịnh,
Giữa chấp thủ, không chấp,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
634. Yassa rāgo ca doso ca māno makkho ca pātito, sāsaporiva āraggā tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
634. Người nào có sự luyến ái, sân hận, ngã mạn, và gièm pha đã được rơi rụng, ví như hột cải rơi khỏi đầu mũi kim, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Dối, tham, sân, mạn, phú,
Ai bỏ rơi được chúng,
Như hột cải rơi khỏi.
Ðầu nhọn của mũi kim,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
635. Akakkasaṃ viññapaniṃ giraṃ saccaṃ udīraye, yāya nābhisaje kañci tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
635. Người thốt lên lời nói chân thật, không thô lỗ, ý nghĩa rõ ràng, không làm mất lòng bất cứ ai với lời nói ấy, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai dạy thật nhỏ nhẹ,
Nói lên lời chơn thực,
Không xúc chạm một ai,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
636. Yo ’dha dīghaṃ va rassaṃ vā aṇuṃ thūlaṃ subhāsubhaṃ, loke adinnaṃ nādiyati brūmi brāhmaṇaṃ.
636. Ở thế gian này, người nào không lấy đi vật không được cho, dầu là dài hay ngắn, nhỏ hay lớn, đẹp hay xấu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Dài ngắn hay lớn nhỏ,
Thanh tịnh hay bất tịnh,
Ở đời vật dài ngắn,
Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh,
Không lấy vật không cho,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
637. Āsā yassa na vijjanti asmiṃ loke paramhi ca, nirāsayaṃ visaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
637. Những mong cầu của người nào về đời này và đời sau không còn tìm thấy, người không mong cầu, không bị ràng buộc, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Với ai không tham cầu,
Ðời này và đời sau,
Từ bỏ mọi tham cầu,
Ðoạn rời mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
638. Yassālayā na vijjanti aññāya akathaṃkathī, amatogadhaṃ anuppattaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
638. Những tham muốn của người nào không còn tìm thấy, là vị đã biết rõ, không còn nghi ngờ, đã đạt đến sự thể nhập Bất Tử, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai không có chấp tàng,
Với trí đoạn nghi hoặc,
Ðạt nhập đáy bất tử.
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
639. Yodha puññaṃ ca pāpaṃ ca ubho saṅgaṃ upaccagā, asokaṃ virajaṃ suddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
639. Ở thế gian này, người nào đã vượt qua sự quyến luyến và cả hai pháp thiện và ác, không sầu muộn, không ô nhiễm, trong sạch, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ở đời ai vượt khỏi,
Mọi buộc ràng thiện ác,
Không sầu, không bụi uế,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
640. Candaṃ va vimalaṃ suddhaṃ vippasannamanāvilaṃ, nandibhava parikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
640. Ví như mặt trăng không bị lấm nhơ, trong sạch, người có tâm thanh tịnh, không bị vẩn đục, đã hoàn toàn cạn kiệt sự vui thích và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai không uế, thanh tịnh,
Không gợn, sáng như trăng,
Hỷ, hữu được đoạn trừ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
641. Yo imaṃ palipathaṃ duggaṃ saṃsāraṃ mohamaccagā, tiṇṇo pāragato jhāyī anejo akathaṃkathī, anupādāya nibbuto tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
641. Người nào đã vượt qua con đường hiểm trở này, khó đi, (vòng quay) luân hồi, và sự si mê, đã băng qua, đã đi đến bờ kia, có thiền, không dục vọng, không nghi ngờ, không chấp thủ, đã tịnh lặng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai vượt qua hiểm lộ,
Ác lộ, luân hồi, si,
Vượt khỏi, đến bờ kia,
Thiền tư, không dao động,
Ðoạn trừ mọi nghi hoặc,
An tịnh, không chấp trước,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
642. Yodha kāme pahatvāna anāgāro paribbaje, kāmabhavaparikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
642. Người nào ở đây có thể dứt bỏ các dục, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt các dục và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ở đời, bỏ dục vọng,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ dục và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
643. Yodha taṇhaṃ pahatvāna anāgāro paribbaje, tanhābhavaparikkhīṇaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
643. Người nào ở đây có thể dứt bỏ tham ái, sống hạnh du sĩ, không nhà, đã hoàn toàn cạn kiệt tham ái và hiện hữu, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ở đời, bỏ tham ác,
Không nhà, sống xuất gia,
Ðoạn trừ ác và hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
644. Hitvā mānusakaṃ yogaṃ dibbaṃ yogaṃ upaccagā, sabbayogavisaṃyuttaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
644. Người đã từ bỏ sự gắn bó thuộc cõi người, đã vượt lên sự gắn bó thuộc cõi trời, không bị ràng buộc với mọi sự gắn bó, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai từ bỏ nhân ách,
Vượt qua cả thiên ách,
Ðoạn trừ mọi ách nạn,
Thoát ly mọi hệ phược,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
645. Hitvā ratiñca aratiñca sītibhūtaṃ nirūpadhiṃ, sabbalokābhibhuṃ vīraṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
645. Người đã từ bỏ sự thích thú và không thích thú, có trạng thái mát mẻ, không còn mầm tái sanh, vị đã chế ngự tất cả thế gian, bậc anh hùng, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Từ bỏ lạc, bất lạc,
Thanh lương, không y trú,
Chiến thắng mọi thế giới,
Bậc anh hùng dũng mãnh,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
646. Cutiṃ yo vedi sattānaṃ upapattiñca sabbaso, asattaṃ sugataṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
646. Người nào đã hiểu biết sự chết và sự tái sanh của chúng sinh về mọi phương diện, không bám víu, đã đi đến nơi an lạc, đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai biết thật hoàn toàn,
Sự sanh diệt chúng sanh,
Không tham trước, Thiện Thệ,
Giác ngộ, đạt chánh giác,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
647. Yassa gatiṃ na jānanti devā gandhabbamānusā, khīṇāsavaṃ arahantaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
647. Cảnh giới tái sanh của người nào mà chư Thiên, Càn-thát-bà, và loài người không biết được, người có lậu hoặc đã được cạn kiệt, là bậc A-la-hán, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Không biết chỗ sở thủ,
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà,
Lậu hoặc được đoạn trừ,
Bậc Ứng Cúng, La-Hán,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
648. Yassa pure ca pacchā ca majjhe ca natthi kiñcanaṃ, akiñcanaṃ anādānaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
648. Đối với người nào, ở phía trước (quá khứ), phía sau (vị lai), và ở phần giữa (hiện tại) không có sở hữu gì, người không sở hữu gì, không nắm giữ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai không có chấp trước,
Ðời trước, sau, đời này,
Không chấp, không sở hữu,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
649. Usabhaṃ pavaraṃ vīraṃ mahesiṃ vijitāvinaṃ, anejaṃ nahātakaṃ buddhaṃ tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
649. Đấng nhân ngưu, bậc cao quý, bậc anh hùng, bậc đại ẩn sĩ, bậc chiến thắng, bậc không còn dục vọng, người đã rửa sạch (mọi nhiễm ô), đã được giác ngộ, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ngưu vương, bậc Tối thắng,
Anh hùng, bậc Ðại sĩ,
Bậc Chinh phục, Bất động,
Tắm sạch, bậc Giác Ngộ,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
650. Pubbe nivāsaṃ yo vedi saggāpāyañca passati, atho jātikkhayaṃ patto tamahaṃ brūmi brāhmaṇaṃ.
650. Người nào biết về kiếp sống trước, nhìn thấy cõi Trời và đọa xứ, rồi đạt đến sự diệt trừ tái sanh, Ta gọi vị ấy là Bà-la-môn.
Ai biết được đời trước,
Thấy được thiện, ác thú,
Ðạt được sanh diệt đoạn,
Kẻ ấy Ta mới gọi,
Chánh danh Bà-la-môn.
651. Samaññā hesā lokasmiṃ nāmagottaṃ pakappitaṃ, sammuccā samudāgataṃ tattha tattha pakappitaṃ.
651. Việc ấy chỉ là sự định đặt ở thế gian, tên và họ là đã được sắp xếp, đã được khởi lên do sự thỏa thuận chung, đã được xếp dặt ở từng trường hợp.
Ðiều thế giới cho gọi,
Là “tên” và “gia tộc”,
Chỉ tục danh, thông danh,
Danh từ khởi nhiều chỗ.
652. Dīgharattamanusayitaṃ diṭṭhigatamajānataṃ, ajānantā te pabruvanti jātiyā hoti brāhmano.
652. Tà kiến của những kẻ không biết đã được tiềm ẩn một cách lâu dài. Trong khi không biết, chúng tuyên bố rằng: ‘Bà-la-môn là do nòi giống.’
Ðã lâu đời chấp trước,
Tà kiến của kẻ ngu,
Kẻ ngu tự tuyên bố,
Bà-la-môn do sanh.
653. Na jaccā brāhmaṇo hoti na jaccā hoti abrāhmaṇo, kammanā brāhmaṇo hoti kammanā hoti abrāhmaṇo.
653. Không phải do nòi giống là Bà-la-môn, không phải do nòi giống là phi Bà-la-môn, do hành động là Bà-la-môn, do hành động là phi Bà-la-môn.
Không phải do sanh đẻ,
Ðược gọi Bà-la-môn,
Không phải do sanh đẻ,
Gọi phi Bà-la-môn.
Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn,
Chính do sự hành động
Gọi phi Bà-la-môn.
654. Kassako kammanā hoti sippiko hoti kammanā, vāṇijo kammanā hoti pessiko hoti kammanā.
654. Nông dân là do hành động, thợ thuyền là do hành động, thương gia là do hành động, tôi tớ là do hành động.
Hành động làm nông phu,
Hành động làm công thợ,
Hành động làm lái buôn,
Hành động làm nô bộc.
655. Coropi kammanā hoti yodhājīvopi kammanā, yājako kammanā hoti rājāpi hoti kammanā.
655. Trộm cướp cũng là do hành động, chiến sĩ cũng là do hành động, người cống hiến là do hành động, nhà vua cũng là do hành động.
Hành động làm ăn trộm,
Hành động làm nhà binh.
Hành động làm tế quan,
Hành động làm vua chúa.
656. Evametaṃ yathābhūtaṃ kammaṃ passanti paṇḍitā, paṭicca samuppādadasā kammavipākakovidā.
656. Việc này là như vậy, các bậc sáng suốt, có sự nhìn thấy pháp tùy thuận sanh khởi, rành rẽ về quả thành tựu của nghiệp, nhìn thấy hành động đúng theo bản thể.
Kẻ trí thấy hành động,
Như thật là như vậy.
Thấy rõ lý duyên khởi,
Biết rõ nghiệp dị thục.
657. Kammānā vattati loko kammanā vattati pajā, kammanibandhanā sattā rathassāṇīva yāyato.
657. Thế gian xoay vần do hành động, loài người xoay vần do hành động, chúng sinh có sự gắn chặt vào hành động, tựa như cái chốt ở trục của chiếc xe đang di chuyển.
Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi.
Nghiệp trói buộc chúng sanh,
Như trục xe quay bánh.
658. Tapena brahmacariyena saṃyamena damena ca, etena brāhmaṇo hoti etaṃ brāhmaṇamuttamaṃ.
658. Do khắc khổ, do sự thực hành Phạm hạnh, do sự kiềm chế bản thân, và do sự rèn luyện, do điều ấy trở thành Bà-la-môn; tư cách Bà-la-môn này là tối thượng.
Do khổ hạnh, Phạm hạnh,
Tiết chế và chế ngự,
Tác thành Bà-la-môn.
Bà-la-môn như vậy,
Mới thật là tối thượng,
659. Tīhi vijjāhi sampanno santo khīṇāpunabbhavo, evaṃ vāseṭṭha jānāhi brahmā sakko vijānatanti.
659. Đối với những người hiểu biết, người đã được thành tựu ba Minh, an tịnh, có sự tái sanh đã được cạn kiệt, là đấng Phạm Thiên, là Thiên Chủ Sakka, này Vāseṭṭha, ngươi hãy biết như vậy.”
Ba Vệ-đà thành tựu,
An tịnh, tái sanh đoạn,
Vesettha nên biết,
Kẻ ấy được Phạm thiên,
Ðược Thiên chủ Sakka,
Biết đến thật tường tận.
Evaṃ vutte vāseṭṭhabhāradvājā māṇavā bhagavantaṃ etadavocuṃ:
Khi được nói như vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vāseṭṭha và Bhāradvāja đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:
Abhikkantaṃ bho gotama —pe— ete mayaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāma dhammañca bhikkhusaṅghañca, upāsake no bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gateti.
“Thưa Ngài Gotama, thật là tuyệt vời! —như trên—Chúng tôi đây xin đi đến nương nhờ Ngài Gotama, Giáo Pháp, và Tăng Chúng tỳ khưu. Xin Ngài Gotama hãy ghi nhận chúng tôi là những nam cư sĩ đã đi đến nương nhờ kể từ hôm nay cho đến trọn đời.”
— Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và quy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng.
Vāseṭṭhasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Vāseṭṭha.
10. KOKĀLIKASUTTAṂ (bản Kinh Pali, trích đoạn)
10. KINH KOKĀLIKA (Ngài Indacanda dịch Việt, văn xuôi, chữ in thường)
10. KINH KOKĀLIYA (Ngài Thích Minh Châu dịch Việt, văn vần, chữ in nghiêng)
Evaṃ me sutaṃ: Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍakassa ārāme.
Tôi đã nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika.
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, trong khu vườn của ông Anàthapindika.
Atha kho kokāliko bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:
Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống ở một bên, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Rồi Tỷ-kheo Kokàliya đi đến Thế Tôn sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Kokàliya bạch Thế Tôn:
Pāpicchā bhante sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.
“Bạch Ngài, Sāriputta và Moggallāna có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
– Bạch Thế Tôn, Sàiputta và Moggallàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.
Evaṃ vutte bhagavā kokakālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca:
Được nói như vậy, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này:
Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika, pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.
“Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”
– Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna.
Dutiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:
Đến lần thứ nhì, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Lần thứ hai, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn:
Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.
“Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
– Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có lòng tin và tin tưởng, đối với con, Sàriputta và Moggalàna là ác dục, bị ác dục chinh phục.
Dutiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.
Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.”
– Này Kokàaliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, chớ có vậy! Này Kokàliya, tâm hãy tinh tấn đối với Sàriputta và Moggallàna. Hiền thiện Sàriputta và Moggallàna
Tatiyampi kho kokāliko bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:
Đến lần thứ ba, tỳ khưu Kokālika đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Lần thứ ba, Tỷ-kheo Kokàliya bạch Thế Tôn …
Kiñcāpi me bhante bhagavā saddhāyiko paccayiko, atha kho pāpicchāva sāriputtamoggallānā pāpikānaṃ icchānaṃ vasaṃ gatāti.
“Bạch Ngài, mặc dầu đối với con đức Thế Tôn là đáng tin tưởng và đáng tin cậy, nhưng Sāriputta và Moggallāna quả thật có lòng tham muốn sái quấy, bị chi phối bởi lòng tham muốn sái quấy.”
Tatiyampi kho bhagavā kokālikaṃ bhikkhuṃ etadavoca: Mā hevaṃ kokālika mā hevaṃ kokālika pasādehi kokālika sāriputtamoggallānesu cittaṃ, pesalā sāriputtamoggallānāti.
Đến lần thứ ba, đức Thế Tôn đã nói với tỳ khưu Kokālika điều này: “Này Kokālika, chớ (nói) như vậy. Này Kokālika, chớ (nói) như vậy.
Này Kokālika, hãy tín tâm với Sāriputta và Moggallāna. Sāriputta và Moggallāna là hiền thiện.” … Hiền thiện là Sàriputta và Moggallàna..
Atha kho kokāliko bhikkhu uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi. Acirapakkantassa ca kokālikassa bhikkhuno sāsapamattīhi piḷakāhi sabbo kāyo phuṭho ahosi. Sāsapamattiyo hutvā muggamattiyo ahesuṃ. Muggamattiyo hutvā kaḷāyamattiyo ahesuṃ. Kaḷāyamattiyo hutvā kolaṭṭhimattiyo ahesuṃ. Kolaṭṭhimattiyo hutvā kolamattiyo ahesuṃ. Kolamattiyo hutvā āmalakamattiyo ahesuṃ. Āmalakamattiyo hutvā beluva salāṭukamattiyo ahesuṃ. Beluvasalāṭukamattiyo hutvā billamattiyo ahesuṃ. Billamattiyo hutvā pabhijjiṃsu, pubbañca lohitañca pagghariṃsu.
Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Và trong khi tỳ khưu Kokālika ra đi không bao lâu, toàn thân của vị ấy đã bị lan tràn bởi những mụt nhọt kích cỡ hạt cải. Sau khi trở thành kích cỡ hạt cải, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu xanh. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu xanh, chúng trở thành kích cỡ hạt đậu lớn. Sau khi trở thành kích cỡ hạt đậu lớn, chúng trở thành kích cỡ hột táo. Sau khi trở thành kích cỡ hột táo, chúng trở thành kích cỡ trái táo. Sau khi trở thành kích cỡ trái táo, chúng trở thành kích cỡ trái āmalaka. Sau khi trở thành kích cỡ trái āmalaka, chúng trở thành kích cỡ trái beluva. Sau khi trở thành kích cỡ trái beluva, chúng trở thành kích cỡ trái billa. Sau khi trở thành kích cỡ trái billa, chúng vỡ tung, tiết ra mủ và máu.
Rồi Tỷ-kheo Kokàliya từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi. Tỷ-kheo Kokàliya ra đi không lâu, toàn thân của Tỷ-kheo Kokàliya nổi lên những mụt to bằng hạt cải; sau khi lớn lên bằng hột đậu; chúng lớn lên bằng hột đậu lớn; sau khi lớn bằng hột đậu lớn, chúng lớn lên bằng hòn đá; sau khi lớn lên bằng hòn đá, chúng lớn lên bằng trái táo; sau khi lớn lên bằng trái táo, chúng lớn lên bằng trái àmala; sau khi lớn lên bằng trái àmala, chúng lớn lên bằng trái vilva; sau khi lớn lên bằng trái vilva, chúng lớn lên bằng trái billi, chúng bị phá vỡ, mủ và máu chảy ra.
Atha kho kokāliko bhikkhu teneva ābādhena kālamakāsi, kālakato ca kho kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapajji sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvā.
Khi ấy, tỳ khưu Kokālika đã qua đời bởi chính bệnh ấy. Và khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.
Rồi Tỷ-kheo Kokàliya do bệnh này bị mệnh chung. Bị mệnh chung, Tỷ-kheo Kokàliya sanh trong địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna.
Atha kho brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami, upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho brahmā sahampati bhagavantaṃ etadavoca:
Sau đó, vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, với màu sắc vượt trội đã làm cho toàn bộ Jetavana rực sáng, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Đứng ở một bên, Phạm Thiên Sahampati đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Rồi Phạm thiên Sahampati sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Ðứng một bên, Phạm thiên Sahampati bạch Thế Tôn:
Kokāliko bhante bhikkhu kālakato. Kālakato ca bhante kokāliko bhikkhu padumanirayaṃ upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti.
“Bạch Ngài, tỳ khưu Kokālika đã qua đời. Và bạch Ngài, khi bị qua đời, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngục Paduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.”
– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya phải sanh vào địa ngục Sen hồng, với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna.
Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy.
Phạm thiên Sahampati nói như vậy, sau khi nói xong, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:
Sau đó, vào cuối đêm ấy đức Thế tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, liền bảo các Tỷ-kheo:
Idaṃ bhikkhave rattiṃ brahmā sahampati abhikkantāya rattiyā —pe—
“Này các tỳ khưu, đêm nay vị Phạm Thiên Sahampati, lúc đêm đã khuya, —như trên—”
– Này các Tỷ-kheo, hồi hôm Phạm thiên Sahampati, khi đêm gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavanađi đến Ta, sau khi đến đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati bạch với Ta: “Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya đã mệnh chung và Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Kokàliya sau khi mệnh chung đã sanh địa ngục Sen hồng với tâm hận thù đối với Sàriputta và Moggallàna”.
Idamavoca brahmā sahampati, idaṃ vatvā maṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā tatthevantaradhāyi.
Phạm Thiên Sahampati đã nói điều này, sau khi đã nói điều này, đã đảnh lễ Ta, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi biết mất ở ngay tại chỗ ấy.
Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati nói như vậy. Sau khi nói xong, đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Evaṃ vutte aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:
Được nói như vậy, một vị tỳ khưu nọ đã nói với đức Thế Tôn điều này:
Ðược nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
Kīvadīghaṃ nu kho bhante padume niraye āyuppamāṇanti?
“Bạch Ngài, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma dài đến chừng nào?”
– Bạch Thế Tôn, bao nhiêu là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng?
Dīghaṃ kho bhikkhu padume niraye āyuppamāṇaṃ, taṃ na sukaraṃ saṅkhātuṃ ettakāni vassāni iti vā ettakāni vassasatāni iti vā ettakāni vassasahassāni iti vā ettakāni vassasatasahassāni iti vāti.
“Này tỳ khưu, ước lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma quả là dài, việc ấy không phải là việc dễ làm để tính toán là ‘chừng này năm,’ hay ‘chừng này trăm năm,’ hay ‘chừng này ngàn năm,’ hay ‘chừng này trăm ngàn năm.’”
– Thật dài, này Tỷ-kheo, là tuổi thọ trong địa ngục Sen hồng, không dễ gì tính được bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, bao nhiêu ngàn năm, hay bao nhiêu trăm ngàn năm.
Sakkā pana bhante upamaṃ kātunti.
“Bạch Ngài, có thể làm một ví dụ không?”
– Bạch Thế Tôn, có thể tính được chăng bằng ví dụ?
Sakkā bhikkhūti bhagavā avoca: Seyyathāpi bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho tato puriso vassasatassa vassasahassassa accayena ekamekaṃ tilaṃ uddhareyya khippataraṃ kho so bhikkhu vīsati khāriko kosalako tilavāho iminā upakkamena parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyya, nattheva eko abbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati abbudā nirayā evameko nirabbudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati nirabbudā nirayā evameko ababo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati ababā nirayā evameko ahaho nirayo.
“Này tỳ khưu, có thể.” Đức Thế Tôn đã nói rằng: “Này tỳ khưu, cũng giống như một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika, rồi từ cỗ xe đó vào cuối thời hạn của một trăm năm, của một ngàn năm, người ta lấy bớt ra một hạt mè, này tỳ khưu, theo cách thức này một cỗ xe chở hạt mè ở xứ Kosala có dung tích hai mươi khārika ấy đi đến sự hoàn toàn cạn kiệt, hoàn toàn hết sạch là còn nhanh hơn (số lượng tuổi thọ ở địa ngục Paduma). Không phải chỉ có một địa ngục Abbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Abbuda là một địa ngục Nirabbuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Nirabbuda là một địa ngục Ababa. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ababa là một địa ngục Ahaha.
Thế Tôn đáp:
– Có thể được, này Tỷ-kheo. Này Tỷ-kheo, ví như có hột đậu mè nặng hai mươi khàrika, theo đo lường nước Kosala. Ví dụ sau một trăm năm, một người lấy ra một lần một hột mè. Này Tỷ-kheo, còn mau hơn là bao hột mè, nặng hai mươi ngàn khàrikaấy, theo đo lường của nước Kosala, đi đến tiêu hao, đi đến hao mòn do phương tiện ấy, so sánh với tuổi thọ ở địa ngục Abbuda. Này Tỷ-kheo hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Abbuda;bằng một tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Nirabbuda, bằng một tuổi thọ ở địa ngục Ababa. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Ahahabằng một tuổi thọ ở địa ngục Atata.
Seyyathāpi bhikkhu vīsati ahahā nirayā evameko aṭaṭo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati aṭaṭā nirayā evameko kumudo nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati kumudā nirayā evameko sogandhiko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati sogandhikā nirayā evameko uppalako nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati uppalakā nirayā evameko puṇḍarīko nirayo, seyyathāpi bhikkhu vīsati puṇḍarīkā nirayā evameko padumo nirayo. Padumaṃ kho pana bhikkhu nirayaṃ kokāliko bhikkhu upapanno sāriputtamoggallānesu cittaṃ āghātetvāti.
Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Ahaha là một địa ngục Aṭata. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Aṭata là một địa ngục Kumuda. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Kumuda là một địa ngục Sogandhika. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Sogandhika là một địa ngục Uppalaka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Uppalaka là một địa ngục Puṇḍarīka. Này tỳ khưu, cũng giống như hai mươi địa ngục Puṇḍarīka là một địa ngục Paduma. Này tỳ khưu, tỳ khưu Kokālika đã sanh vào địa ngụcPaduma sau khi khởi tâm thù hằn với Sāriputta và Moggallāna.”
Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Atata bằng một tuổi thọ ở địa ngục Kumuda. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Kumuda bằng một tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika. Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Sogandhika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Uppala (Hoa sen xanh). Này các Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Uppala bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pundarika (Hoa sen). Này Tỷ-kheo, hai mươi tuổi thọ ở địa ngục Pundarika bằng một tuổi thọ ở địa ngục Pudumà. Này Tỷ Kheo Kokàliya sanh tại địa ngục Pudumà với tâm hận thù Sàripputta và Moggallàna.
Idamavoca bhagavā, idaṃ vatvā sugato athāparaṃ etadavoca satthā:
Đức Thế Tôn đã nói điều này. Sau khi nói điều này, đấng Thiện Thệ, bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:
Thế Tôn nói như vậy. Sau khi nói như vậy, bậc Thiện Thệ lại nói thêm:
660. Purisassa hi jātassa kuṭhārī jāyate mukhe, yāya chindati attānaṃ bālo dubbhāsitaṃ bhaṇaṃ.
660. “Bởi vì đối với người đã được sanh ra, có lưỡi rìu được sanh ra cho người ấy, kẻ ngu tự cắt đứt bản thân với nó, trong khi nói lời nói xấu xa.
657. Phàm con người đã sanh,
Sanh với búa trong miệng,
Kẻ ngu khi nói bậy,
Tự chặt đứt lấy mình.
661. Yo nindiyaṃ pasaṃsati taṃ vā nindati yo pasaṃsiyo, vicināti mukhena so kaliṃ kalinā tena sukhaṃ na vindati.
661. Kẻ nào khen ngợi người đáng bị chê bai, hoặc chê bai người đáng được khen ngợi, kẻ ấy tích lũy lầm lỗi bởi cái miệng, do lầm lỗi ấy không tìm thấy sự an lạc.
658. Ai khen kẻ đáng chê,
Ai chê người đáng khen,
Tự chất chứa bất hạnh,
Do lỗ miệng của mình,
Chính do bất hạnh ấy,
Nên không được an lạc.
662. Appamatto ayaṃ kali yo akkhesu dhanaparājayo, sabbassāpi sahāpi attanā ayameva mahantataro kali, yo sugatesu manaṃ padosaye.
662. Lầm lỗi này, việc thất thoát tài sản thậm chí toàn bộ (của cải) cùng với bản thân ở các con súc sắc, là có tầm cỡ nhỏ nhoi. Kẻ nào khởi tâm ý xấu xa dối với các bậc đã đi đến trạng thái tốt lành, chính lầm lỗi này là lớn lao hơn.
659. Nhỏ thay bất hạnh này,
Trong canh bạc rủi may,
Do quăng con xúc xắc,
Tài sản bị hoại vong,
Lớn hơn bất hạnh này,
Tự mình gây cho mình,
Với người có ác ý,
Ðối chư Phật, Thiện Thệ.
663. Sataṃ sahassānaṃ nirabbudānaṃ chattiṃsati pañca ca abbudāni, yamariyagarahī nirayaṃ upeti vācaṃ manañca paṇidhāya pāpakaṃ.
663. Sau khi buông xuống lời nói và ý nghĩ ác xấu, kẻ quở trách các bậc Thánh nhân đi đến địa ngục là ba triệu sáu trăm ngàn (địa ngục) Nirabbuda và năm (địa ngục) Abbuda.
660. Trải thời gian trăm ngàn
Ở Nirabbuda,
Ba mươi sáu và năm
Ở tại Abbuda,
Với lời và ác ý,
Ai phỉ báng bậc Thánh,
Người ấy sẽ rơi vào
Các cõi dữ địa ngục.
664. Abhūtavādī nirayaṃ upeti yo vāpi katvā na karomīti cāha, ubhopi te pecca samā bhavanti nihīnakammā manujā parattha.
664. Người có lời nói không thật đi địa ngục, hoặc luôn cả người nào sau khi làm đã nói rằng: ‘Tôi không làm;’ cả hai người ấy, có hành động thấp kém, sau khi chết (đọa) vào cảnh giới khác là giống như nhau.
661. Kẻ nói không chân thật,
Ði đến cõi địa ngục,
Ai tự mình có làm,
Lại nói: “Tôi không làm”,
Cả hai sau khi chết,
Ðều được xem đồng đẳng,
Hành động họ hạ liệt,
Ðời sau, đồng làm người.
665. Yo appaduṭṭhassa narassa dussati suddhassa posassa anaṅgaṇassa, tameva bālaṃ pacceti pāpaṃ sukhumo rajo paṭivātaṃva khitto.
665. Kẻ nào bôi nhọ người không bị ô nhiễm, người trong sạch, không vết nhơ, điều xấu xa quay về chính kẻ ngu ấy, ví như bụi bặm li ti được tung ra ngược chiều gió.
662. Ai khởi lên ác tâm,
Ðối người không ác ý,
Ðối người sống thanh tịnh,
Không có gì uế nhiễm,
Ác ấy trở lui lại,
Ðến với kẻ ngu ấy,
Như bụi bặm nhỏ nhiệm
Quăng ngược chiều gió thổi.
666. Yo lobhaguṇe anuyutto so vacasā paribhāsati aññe, assaddho kadariyo avadaññū maccharī pesuniyasmiṃ anuyutto.
666. Kẻ nào đeo bám các bản chất của tham, kẻ ấy chê bai những người khác bàng lời nói, là kẻ không có niềm tin, keo kiệt, là kẻ không biết đến lời giảng huấn, bỏn xẻn, là kẻ đeo đuổi việc nói đâm thọc.
663. Ai hệ lụy đắm trước,
Các chủng loại tham dục,
Người ấy với lời nói,
Chỉ trích các người khác,
Không lòng tin, xan lẫn,
Không rộng rãi với người,
Xan tham và keo kiết,
Quen thói nói xấu người.
667. Mukhadugga vibhūta anariya bhūnahu pāpaka dukkatakārī, purisanta kali avajāta mā bahu bhāṇidha nerayikosi.
667. Này kẻ ăn nói thô lỗ, thiếu chân thật, không thánh thiện, kẻ đồi trụy, ác độc, kẻ làm hành động xấu xa, kẻ khốn cùng, xúi quẩy, kẻ hạ căn, ngươi chớ nói nhiều ở nơi đây; ngươi là hạng người ở địa ngục.
664. Này Ông, miệng ác độc,
Không chân thật, không thánh,
Kẻ giết hại sanh linh,
Kẻ ác, kẻ làm ác,
Người hạ liệt, bất hạnh,
Thuộc về loại hạ sanh,
Ở đời, chớ nói nhiều
Ông là dân địa ngục.
668. Rajamākirasi ahitāya sante garahasi kibbisakārī, bahūni ca duccaritāni caritvā gañchisi kho papataṃ cirarattaṃ.
668. Ngươi gieo rắc bụi bặm (phiền não) vào sự bất hạnh (của chinh ngươi), ngươi quở trách những bậc đức độ, ngươi là kẻ làm điều sái quấy. Và sau khi thực hành nhiều uế hạnh, ngươi đương nhiên sẽ đi đến đọa xứ trong thời gian lâu dài.
665. Ông rắc rải bụi trần,
Khiến mọi người bất hạnh,
Ông nói xấu bậc hiền,
Làm ác điều tội ác,
Sau khi Ông đã làm
Rất nhiều điều ác hạnh,
Ông đi đến vực thẳm,
Trong thời gian dài dài
669. Na hi nassati kassaci kammaṃ iti ha taṃ labhate va suvāmī, dukkhaṃ mando paraloke attani passati kibbisakārī.
669. Bởi vì nghiệp của bất cứ một ai đều không bị tiêu hoại, chủ nhân (của việc đã làm) đương nhiên gánh chịu nghiệp ấy. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều sái quấy, nhìn thấy khổ đau ở bản thân mình vào đời sau.
666. Hành động bất cứ ai,
Không đi đến tiêu diệt,
Rồi nó cũng đến Ông,
Bắt gặp được nghiệp chủ,
Kẻ ngu làm điều ác,
Ðời sau thấy mình khổ.
670. Ayosaṃkusamāhataṭṭhānaṃ tiṇhadhāraṃ ayasūlamupeti, atha tatta-ayoguḷasannibhaṃ bhojanamatthi tathā patirūpaṃ.
670. Kẻ ấy đi đến cọc sắt có cạnh sắc bén, nơi chốn (có hình phạt) bị đâm xuyên bằng giáo sắt, rồi có vật thực giống như hòn sắt bị nung cháy đỏ, tương xứng (với nghiệp đã làm) như thế ấy.
667. Nó đi đến tại chỗ
Bị đánh bằng roi sắt,
Tại chỗ có cọc sắt,
Với cạnh lưỡi bén nhọn
Ở đấy nó có được
Các món ăn thích đáng,
Giống như những hòn sắt,
Ðược nung nấu cháy đỏ,
671. Na hi vaggu vadanti vadantā nābhijavanti na tāṇamupenti, aṅgāre santhate senti agginisamaṃ jalitaṃ pavisanti.
671. Trong khi nói, đương nhiên họ (những cai ngục) không nói ngọt ngào, họ không vồn vã (tiếp đón). Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến nơi không phải là chốn nương thân. Chúng nằm ở nơi đã được lót trải than hừng, chúng đi vào đám lửa đã được bốc cháy.
668. Tại đấy không ai nói
Lời nhẹ nhàng an ủi,
Không có ai vội vã,
Ðến che chở hộ trì,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ hừng hực.
672. Jālena ca onahiyānā tattha hananti ayomayakūṭehi, andhaṃva timisamāyanti taṃ vitataṃ hi yathā mahikāyo.
672. Và sau khi chụp xuống bằng tấm lưới (sắt), tại nơi ấy họ (những cai ngục) đánh đập (chúng) với những chiếc búa làm bằng sắt. Chúng (những kẻ đọa địa ngục) đi đến bóng tối vô cùng mờ mịt, bóng tối ấy trải rộng khắp giống như sương mù.
669. Với lưới, kẻ giữ ngục,
Trùm kín bao phủ họ,
Tại đấy với gậy sắt,
Họ hành hạ đánh đập,
Họ đi qua vực đen,
Tối tăm không thấy đường,
Như đi qua đám mù,
Ðang dầy đặc tràn rộng.
673. Atha lohamayaṃ pana kumbhiṃ agginisamaṃ jalitaṃ pavisanti, paccanti hi tāsu cirarattaṃ agginisamāsu samuppilavāso.
673. Rồi chúng còn đi vào cái lu làm bằng đồng có đám lửa đã được bốc cháy. Thật vậy, chúng bị nung nấu trong những cái lu ấy một thời gian dài, trồi lên hụp xuống trong những đám lửa.
670. Họ đi đến bước vào
Các chum ghè bằng sát,
Họ bước vào hầm lửa,
Ðang cháy đỏ hừng hực,
Tại đấy, họ bị nấu,
Trong thời gian lâu dài,
Họ nổi lên chìm xuống,
Trong những hầm lửa ấy.
674. Atha pubbalohitamisse tattha kiṃ paccati kibbisakārī, yaṃ yaṃ disataṃ adhiseti tattha kilissati samphusamāno.
674. Rồi trong đám máu mủ bị trộn lẫn, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Bất kỳ phương hướng nào gã nương tựa vào, tại nơi ấy gã đều bị lem luốc trong khi xúc chạm (với mủ và máu).
671. Rồi kẻ làm điều ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Giữa đống mủ và máu,
Xen kẽ và lẫn lộn,
Tùy theo phương hướng nào,
Nó theo chiều hướng nằm,
Ở đấy, bị rửa nát,
Khi bị xúc chạm vào.
675. Puḷavāvasathe salilasmiṃ tattha kiṃ paccati kibbisakāri,
gantuṃ na hi tīramapatthi sabbasamā hi samantakapallā.
675. Ở trong nước, chỗ trú ngụ của các loài giòi bọ, kẻ làm điều sái quấy bị nung nấu ở tại nơi ấy. Cũng chẳng có bến bờ để đi ra, bởi vì xung quanh cái chảo nấu tất cả đều bằng phẳng.
672. Trong nước, chỗ trú ẩn
Của các loài côn trùng,
Kẻ làm các điều ác,
Bị nung nấu tại đấy,
Cho đến những bờ bến
Không có cho nó đi,
Vì chum ghè mọi phía,
Ðều tròn đầy như nhau.
676. Asipattavanaṃ pana tiṇhaṃ taṃ pavisanti samacchidagattā,
jivhaṃ baḷisena gahetvā ārajayārajayā vihananti.
676. Hơn nữa, chúng (những kẻ đọa địa ngục) còn đi vào khu rừng Asipatta (Gươm Lá) sắc bén, (và) có thân thể bị băm nát. Họ (những cai ngục) nắm lấy cái lưỡi với các móc câu, kéo tới kéo lui, rồi đánh đập (chúng).
673. Trong rừng đầy lá gươm,
Sắc bén và mũi nhọn,
Họ đi vào rừng ấy,
Chân tay bị chém đứt
Sử dụng các câu móc,
Chúng móc lưỡi dài ra
Rồi những kẻ ngục tối
Hành hạ đánh giết họ,
677. Atha vetaraṇiṃ pana duggaṃ tiṇhadhāra khuradhāramupenti,
tattha mandā papatanti pāpakarā pāpāni karitvā.
677. Rồi chúng còn đi đến (dòng sông) Vetaraṇī, có cạnh sắc bén, có lưỡi dao cạo, khó lội qua. Kẻ ngu muội, kẻ làm điều ác đọa vào nơi ấy sau khi đã làm các điều ác.
674. Họ đi vào cảnh giới,
Gọi Vêtarani,
Khó vượt qua, tràn đầy,
Lưỡi dao, búa sắc bén,
Tại chỗ ấy, kẻ ngu,
Bị rơi, bị rớt vào,
Những kẻ làm điều ác,
Sau khi tạo nghiệp ác.
678. Khādanti hi tattha rudante sāmā sabalā kākolagaṇā ca,
soṇā sigālā paṭigijjhā kulalā vāyasā ca vitudanti.
678. Bởi vì trong khi chúng đang khóc lóc ở tại nơi ấy, những con chó màu đen, có đốm, và những bầy quạ đen gặm nhấm chúng, những con chó rừng thèm khát, những con diều hâu và những con chim quạ rỉa rói chúng.
675. Tại đấy, các chim thú,
Ăn thịt kẻ rên la,
Những bầy, đàn quạ đen,
Ðen thui và lốm đốm,
Các loài chó, dã can,
Cùng với các chim kên,
Các diều hâu, chim quạ,
Xé xác những kẻ ấy.
679. Kicchā vatāyaṃ idha vutti yaṃ jano passati kibbisakārī, tasmā idha jīvitasese kiccakaro siyā naro na pamajje.
679. Lối hành xử này ở nơi đây quả là khó khăn, hạng người làm điều sái quấy nhìn thấy điều này. Vì thế, trong quãng đời còn lại ở thế gian này, nên là người thực hành phận sự, không nên xao lãng.
676. Thật rất là đau khổ
Nếp sống này, tại đấy,
Nếp sống kẻ làm ác,
Loài Người thấy được vậy,
Do vậy, ở đời này,
Với mạng sống còn lại,
Là người làm công việc,
Không biếng nhác thụ động.
680. Te gaṇitā vidūhi tilavāhā ye padume niraye upanītā,nahutāni hi koṭiyo pañca bhavanti dvādasa koṭisatāni punaññā.
680. Những cỗ xe chở hạt mè so sánh với (thời gian ở) địa ngục Paduma đã được các bậc hiểu biết tính đếm là năm mươi nghìn koṭi (5 x 10.000 x 10 triệu = 500 tỷ) thêm vào một ngàn hai trăm koṭi (12 x 100 x 10 triệu = 12 tỷ) nữa.
677. Những hột mè mang lại,
Ðịa ngục Paduma,
Ðược kẻ trí đếm kỹ,
Số đến Nahuta,
Lên đến số năm tỷ,
Tức năm ngàn vạn triệu,
Còn nữa lên đến số,
Một trăm hai mươi ức.
681. Yāva dukkhā nirayā idha vuttā tatthāpi tāva ciraṃ vasitabbaṃ, tasmā sucipesalasādhuguṇesu vācaṃ manaṃ satataṃ parirakkheti.
681. Các địa ngục khổ đau đến chừng nào, thậm chí còn phải sống lâu ở nơi ấy đến chừng ấy, đã được nói đến ở đây; vì thế, nên thận trọng giữ gìn lời nói và ý nghĩ đối với những bậc có đức hạnh trong sạch, hiền thiện, và tốt lành.”
678. Khổ cho đến như vậy,
Ðịa ngục được nói đến,
Tại đấy cần phải sống,
Lâu cho đến như vậy.
Như vậy, giữa những người,
Trong sạch, thiện tốt lành,
Hãy luôn luôn hộ trì,
Lời nói và ý nghĩa.
Kokālikasuttaṃ niṭṭhitaṃ.
Dứt Kinh Kokālika.
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Kinh Tập” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda