Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni – Chương Saṅghādisesa

Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni

Chương Saṅghādisesa

Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa này được đưa ra đọc tụng.

Điều Saṅghādisesa thứ nhất

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ sau khi dâng kho chứa đồ đạc đến hội chúng tỳ khưu ni rồi từ trần. Người ấy có hai người con trai: một người không có niềm tin và không mộ đạo, một người có niềm tin và mộ đạo. Họ đã phân chia tài sản thuộc về người cha. Khi ấy, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này: – “Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.” Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này: – “Này anh, chớ nói như thế. Cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.” Đến lần thứ nhì, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này: – “Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.” Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này: – “Này anh, chớ nói như thế. Cha chúng ta đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.” Đến lần thứ ba, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã nói với người có niềm tin và mộ đạo điều này: – “Cái kho chứa đồ đạc thuộc về chúng ta, hãy chia vật ấy.” Khi được nói như thế, người có niềm tin và mộ đạo ấy (nghĩ rằng): “Nếu thuộc về ta, ta cũng sẽ dâng đến hội chúng tỳ khưu ni” rồi đã nói với người không có niềm tin và không mộ đạo ấy điều này: – “Chúng ta hãy chia.”

Khi ấy, cái kho chứa đồ đạc ấy, trong lúc được phân chia bởi những người ấy, đã thuộc về người không có niềm tin và không mộ đạo ấy. Sau đó, người không có niềm tin và không mộ đạo ấy đã đi đến gặp hội chúng tỳ khưu ni và đã nói điều này: – “Thưa các ni sư, xin hãy đi ra. Kho chứa đồ đạc là của chúng tôi.” Khi được nói như thế, tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với người đàn ông ấy điều này: – “Này ông, chớ nói như thế. Cha các ông đã dâng đến hội chúng tỳ khưu ni rồi.” – “Đã được dâng! Chưa được dâng!” Họ đã hỏi các quan đại thần lo việc xử án. Các quan đại thần đã nói như vầy: – “Thưa ni sư, người nào biết là đã được dâng đến hội chúng tỳ khưu ni.” Khi được nói như thế, tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với các quan đại thần ấy điều này: – “Thưa các ngài, ngay cả các ngài cũng đã được thấy hoặc đã được nghe trong khi thành lập nhân chứng và trong khi vật thí đang được dâng cúng mà.” Khi ấy, các quan đại thần ấy (nói rằng): – “Ni sư đã nói đúng sự thật.” Rồi đã xử hội chúng tỳ khưu ni được kho chứa đồ đạc ấy.

Khi ấy, người đàn ông ấy bị thua cuộc nên phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Những bà cạo đầu khả ố này không phải là các nữ Sa-môn. Tại sao các bà lại cho (người) cướp đoạt kho chứa đồ đạc của chúng tôi?” Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại thần đã ra lệnh đánh đòn người đàn ông ấy. Sau đó, người đàn ông ấy bị đánh đòn nên đã bảo xây dựng chỗ ngủ cho các đạo sĩ lõa thể ở nơi không xa chỗ ngụ của các tỳ khưu ni rồi đã xúi giục các đạo sĩ lõa thể rằng: – “Các ngươi hãy lăng mạ các tỳ khưu ni ấy.” Tỳ khưu ni Thullanandā đã kể lại sự việc ấy cho các vị quan đại thần. Các vị quan đại thần đã ra lệnh giam giữ người đàn ông ấy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các tỳ khưu ni lần đầu làm cho (người ta) bị cướp đoạt kho chứa đồ đạc, đến lần thứ nhì làm cho bị đánh đập, đến lần thứ ba làm cho bị giam giữ, bây giờ sẽ làm cho chết?” Các tỳ khưu ni đã nghe được những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại sống làm người thưa kiện?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā sống làm người thưa kiện, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại sống làm người thưa kiện vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào sống làm người thưa kiện với nam gia chủ, hoặc với con trai của nam gia chủ, hoặc với người nô tỳ, hoặc với người làm công, hoặc ngay cả với Sa-môn du sĩ, vị tỳ khưu ni này phạm tội saṅghādisesa ngay lúc vừa mới vi phạm, cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Người thưa kiện nghĩa là người gây ra vụ xử án được đề cập đến.

Nam gia chủ nghĩa là bất cứ người nam nào sống trong căn nhà.

Con trai của nam gia chủ nghĩa là bất cứ những người nào là con trai hoặc anh em trai.

Người nô tỳ nghĩa là được bẩm sanh, được mua bằng của cải, bị bắt đi làm công việc.

Người làm công nghĩa là người làm thuê, người khuân vác.

Sa-môn du sĩ nghĩa là bất cứ người nào thành tựu pháp du sĩ trừ ra tỳ khưu, tỳ khưu ni, cô ni tu tập sự, sa di, và sa di ni.

Ta sẽ thưa kiện: Vị ni (nghĩ vậy rồi) tìm kiếm người thứ hai hoặc (đích thân) đi thì phạm tội dukkaṭa. Nói với người thứ nhất thì phạm tội dukkaṭa. Nói với người thứ nhì thì phạm tội thullaccaya. Khi kết thúc vụ xử án thì phạm tội saṅghādisesa.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: Chỉ có hội chúng–không phải một số tỳ khưu ni, không phải một tỳ khưu ni–ban cho hành phạt mānatta của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, cho giải tội; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’ Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Vị ni đi trong khi bị những người khác lôi kéo đi, vị ni yêu cầu sự bảo vệ, vị ni nói ra không nêu rõ (người nào), vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ nhất.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ nhì

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, ở thành Vesālī cô vợ của một người dòng dõi Licchavi nọ ngoại tình. Khi ấy, người Licchavi ấy đã nói với người đàn bà ấy điều này: – “Tốt hơn cô hãy chừa. Tôi sẽ làm điều thất lợi cho cô.” Mặc dầu được nói như thế, cô ta đã không lưu tâm đến. Vào lúc bấy giờ, nhóm người Licchavi tụ họp lại ở Vesālī vì công việc cần làm nào đó. Khi ấy, người Licchavi ấy đã nói với những người Licchavi ấy điều này: – “Thưa quý vị, quý vị hãy cho phép tôi đối với một người đàn bà.” – “Cô ấy tên là gì?” – “Vợ của tôi ngoại tình. Tôi sẽ giết cô ta.” – “Ngươi tự biết lấy.”

Người đàn bà ấy đã nghe được rằng: “Nghe nói chồng có ý định giết ta” rồi đã lấy đồ đạc quý giá đi đến thành Sāvatthī gặp các tu sĩ ngoại đạo và đã cầu xin sự xuất gia. Các tu sĩ ngoại đạo đã không chịu cho xuất gia. Cô đã đi đến gặp các tỳ khưu ni và cầu xin sự xuất gia. Các tỳ khưu ni cũng đã không chịu cho xuất gia. Cô đã đi đến gặp tỳ khưu ni Thullanandā, đưa cho xem gói đồ đạc rồi cầu xin sự xuất gia. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nhận lấy gói đồ đạc rồi đã cho xuất gia.

Khi ấy, người Licchavi ấy trong lúc tìm kiếm người đàn bà ấy đã đi đến thành Sāvatthī. Sau khi thấy (cô ấy) đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni liền đi đến gặp đức vua Pasenadi xứ Kosala, sau khi đến đã nói với đức vua Pasenadi xứ Kosala điều này: – “Tâu bệ hạ, vợ của thần đã lấy đi đồ đạc quý giá và đã đến thành Sāvatthī. Xin bệ hạ hãy cho phép thần đối với cô ấy.” – “Này khanh, nếu thế thì hãy tìm kiếm rồi trình báo.” – “Tâu bệ hạ, đã tìm thấy. Cô ta đã xuất gia nơi các tỳ khưu ni.” – “Này khanh, nếu đã được xuất gia nơi các tỳ khưu ni thì không được phép làm gì cô ta cả. Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy để cô ta thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.”

Khi ấy, người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các tỳ khưu ni lại cho nữ tặc xuất gia?” Các tỳ khưu ni đã nghe được người Licchavi ấy phàn nàn, phê phán, chê bai.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā cho nữ tặc xuất gia, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā lại cho nữ tặc xuất gia vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào trong khi biết nữ đạo tặc có tội tử hình đã được loan báo mà vẫn tiếp độ (cho tu) khi chưa xin phép đức vua, hoặc hội chúng, hoặc nhóm, hoặc phường hội, hoặc cộng đồng, ngoại trừ có sự được phép vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Biết nghĩa là vị tự mình biết, hoặc các người khác thông báo cho cô ấy, hoặc cô kia thông báo.

Nữ đạo tặc nghĩa là cô nào lấy đi theo lối trộm cắp vật không được cho trị giá nămmāsaka hoặc hơn năm māsaka; cô ấy gọi là nữ đạo tặc.

Có tội tử hình nghĩa là cô ta đã thực hiện loại hành động khiến cho cô ta đáng tội tử hình.

Được loan báo nghĩa là những người khác biết (về cô ta) rằng: “Cô này đáng tội tử hình.”

Khi chưa xin phép: khi chưa hỏi ý.

Đức vua nghĩa là nơi nào đức vua cai quản thì nên xin phép đức vua.

Hội chúng nghĩa là hội chúng tỳ khưu ni được đề cập đến, nên xin phép hội chúng tỳ khưu ni.

Nhóm nghĩa là nơi nào nhóm cai quản thì nên xin phép nhóm.

Phường hội nghĩa là nơi nào phường hội cai quản thì nên xin phép phường hội.

Cộng đồng nghĩa là nơi nào cộng đồng cai quản thì nên xin phép cộng đồng.

Ngoại trừ có sự được phép: trừ ra sự được phép. Sự được phép nghĩa là có hai sự được phép: đã được xuất gia nơi các tu sĩ ngoại đạo hoặc là đã được xuất gia nơi các tỳ khưu ni khác. Ngoại trừ có sự được phép, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ tiếp độ” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni), hoặc vị ni tuyên ngôn, hoặc là bình bát, hoặc là y, hoặc là chỉ định ranh giới thì phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự, thầy tế độ phạm tộisaṅghādisesa, nhóm (chứng minh) và vị ni tuyên ngôn phạm tội dukkaṭa.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến vị ni trước đây.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: Chỉ có hội chúng–không phải một số tỳ khưu ni, không phải một tỳ khưu ni–ban cho hành phạt mānatta của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, cho giải tội; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’ Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Nữ đạo tặc, nhận biết là nữ đạo tặc, vị ni tiếp độ thì phạm tội saṅghādisesa ngoại trừ có sự được phép. Nữ đạo tặc, có sự hoài nghi, vị ni tiếp độ thì phạm tội dukkaṭa ngoại trừ có sự được phép. Nữ đạo tặc, (lầm) tưởng không phải là nữ đạo tặc, vị ni tiếp độ thì vô tội ngoại trừ có sự được phép. Không phải là nữ đạo tặc, (lầm) tưởng là nữ đạo tặc, phạm tội dukkaṭa. Không phải là nữ đạo tặc, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Không phải là nữ đạo tặc, nhận biết không phải là nữ đạo tặc thì vô tội.

Vị ni không biết rồi tiếp độ, sau khi xin phép rồi tiếp độ, tiếp độ người đã được phép, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ nhì.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ ba

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, vị tỳ khưu ni học trò của Bhaddā Kāpilānī[9] sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni đã đi đến gia đình thân quyến ở trong thôn. Bhaddā Kāpilānī không nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy nên đã hỏi các tỳ khưu ni rằng: – “Ni tên (như vầy) đâu rồi, không có thấy?” – “Thưa ni sư, sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni thì không được thấy.” – “Này các cô, gia đình thân quyến của cô này ở thôn kia, hãy đi đến và tìm kiếm ở nơi đó.” Các tỳ khưu ni sau khi đi đến nơi ấy đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy và đã nói điều này: – “Này ni sư, sao cô lại đi mỗi một mình? Chắc hẳn cô không bị xâm phạm?” – “Này các ni sư, tôi không bị xâm phạm.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu ni lại đi vào trong làng một mình?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đi vào trong làng một mình, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đi vào trong làng một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

Vào lúc bấy giờ, có hai tỳ khưu ni đang đi đường xa từ Sāketa đến thành Sāvatthī. Giữa đường đi có con sông cần phải băng qua. Khi ấy, hai tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các người chèo đò và đã nói điều này: – “Này đạo hữu, tốt thay hãy đưa chúng tôi sang.” – “Thưa các ni sư, không thể đưa sang cả hai người cùng một lần.” Rồi một người (chèo đò) đã đưa một (vị tỳ khưu ni) sang. Người đưa sang đã làm nhơ vị ni được đưa sang. Người không đưa sang đã làm nhơ vị ni chưa được đưa sang. Hai cô ni ấy sau khi gặp lại nhau đã hỏi rằng: – “Này ni sư, chắc hẳn cô không bị xâm phạm?” – “Này ni sư, tôi đã bị xâm phạm. Này ni sư, còn cô chắc không bị xâm phạm?” – “Này ni sư, tôi đã bị xâm phạm.”

Sau đó, hai tỳ khưu ni ấy đã đi đến thành Sāvatthī và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu ni lại đi sang bờ bên kia sông một mình?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni đi sang bờ bên kia sông một mình, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni lại đi sang bờ bên kia sông một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy: 

 “Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu ni trong khi đang đi đến thành Sāvatthī thuộc xứ sở Kosala lúc tối trời đã ghé vào ngôi làng nọ. Trong số đó, có vị tỳ khưu ni đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Có người đàn ông nọ đã sanh lòng say đắm với hình dáng của vị tỳ khưu ni ấy. Khi ấy, người đàn ông ấy trong khi sắp xếp chỗ ngủ cho các tỳ khưu ni ấy đã sắp xếp chỗ ngủ của vị tỳ khưu ni ấy ở một bên. Khi ấy, vị tỳ khưu ni ấy đã xét đoán ra rằng: “Người đàn ông này đã bị ám ảnh rồi. Nếu trong đêm tối hắn ta đến thì ta sẽ bị mất phẩm giá” nên đã đi đến gia đình khác rồi nằm ngủ (ở đó), không thông báo cho các tỳ khưu ni. Sau đó trong đêm tối, người đàn ông ấy đã đi đến và trong khi tìm kiếm vị tỳ khưu ni ấy đã chạm vào các tỳ khưu ni. Các tỳ khưu ni trong lúc không nhìn thấy vị tỳ khưu ni ấy đã nói như vầy: – “Chắc chắn là vị tỳ khưu ni ấy đã đi ra ngoài với người đàn ông.” Sau đó, khi trải qua đêm ấy vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ni ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với vị tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này ni sư, vì sao cô đã đi ra ngoài với người đàn ông?” – “Này các ni sư, tôi đã không đi ra ngoài với người đàn ông.” Và đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu ni.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu ni ban đêm lại trú ngụ riêng một mình?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni ban đêm trú ngụ riêng một mình, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni ban đêm lại trú ngụ riêng một mình vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Và điều học này đã được đức Thế Tôn quy định cho các tỳ khưu ni như thế.

Vào lúc bấy giờ, có nhiều tỳ khưu ni đang đi đường xa đến thành Sāvatthī trong xứ Kosala. Tại nơi ấy, có vị tỳ khưu ni nọ bị khó chịu vì việc đại tiện nên tách rời ra mỗi một mình rồi đã đi ở phía sau. Nhiều người đã nhìn thấy và đã làm nhơ vị tỳ khưu ni ấy. Sau đó, vị tỳ khưu ni ấy đã đi đến gặp các tỳ khưu ni ấy. Các tỳ khưu ni đã nói với tỳ khưu ni ấy điều này: – “Này ni sư, vì sao cô lại tách rời ra mỗi một mình vậy? Chắc hẳn cô đã không bị xâm phạm?” – “Này các ni sư, tôi đã bị xâm phạm.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao vị tỳ khưu ni một mình lại tách rời ra khỏi nhóm?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni một mình tách rời ra khỏi nhóm, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao vị tỳ khưu ni một mình lại tách rời ra khỏi nhóm vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào đi vào trong làng một mình hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình, hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình, hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Hoặc đi vào trong làng một mình: vị ni trong khi vượt qua hàng rào của ngôi làng được rào lại bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya, trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa. Vị ni trong khi vượt qua vùng phụ cận của ngôi làng không được rào lại bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya, trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa.

Hoặc đi sang bờ bên kia sông một mình: Sông nghĩa là bất cứ ở nơi đâu làm ướt y nội của vị tỳ khưu ni (được quấn) che khuất cả ba vòng[10] trong lúc (vị ni ấy) lội qua nơi ấy. Vị ni trong khi vượt qua bước thứ nhất thì phạm tội thullaccaya, trong khi vượt qua bước thứ nhì thì phạm tội saṅghādisesa.

Hoặc ban đêm trú ngụ riêng một mình: Đến lúc rạng đông, vị ni đang lìa khỏi tầm tay của vị tỳ khưu ni thứ hai thì phạm tội thullaccaya, khi đã lìa khỏi thì phạm tội saṅghādisesa.

Hoặc một mình tách rời ra khỏi nhóm: không phải ở trong làng, ở trong rừng, vị ni trong khi lìa khỏi tầm nhìn hoặc tầm nghe của vị tỳ khưu ni thứ nhì thì phạm tội thullaccaya, khi đã lìa khỏi thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Trong lúc vị tỳ khưu ni thứ nhì bỏ đi hoặc hoàn tục hoặc qua đời hoặc chuyển sang phe phái khác, trong những lúc có sự cố, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ ba.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ tư

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī là vị ni thường gây nên các sự xung đột, gây nên các sự cãi cọ, gây nên các sự tranh luận, gây nên các cuộc nói chuyện nhảm nhí, và gây nên các sự tranh tụng trong hội chúng. Trong lúc hành sự đang được tiến hành cho vị ni ấy, tỳ khưu ni Thullanandā đã phản đối. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vào làng vì công việc cần làm nào đó.

Khi ấy, hội chúng tỳ khưu ni (nghĩ rằng): “Tỳ khưu ni Thullanandā đã đi vắng” nên đã phạt án treo tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī trong việc không nhìn nhận tội. Tỳ khưu ni Thullanandā sau khi hoàn tất công việc cần làm ấy ở trong làng đã quay trở về thành Sāvatthī. Trong khi tỳ khưu ni Thullanandā đi về, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống. Tỳ khưu ni Thullanandā đã nói với tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī điều này: – “Này cô ni, vì sao trong khi tôi đi về, cô đã không sắp xếp chỗ ngồi, đã không đem lại nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, đã không đi ra tiếp rước y bát, và đã không dâng nước uống vậy?” – “Thưa ni sư, bởi vì sự việc này là như vậy, giống như là việc làm đối với kẻ không người bảo hộ.” – “Này cô ni, vì sao cô lại là không người bảo hộ?” – “Thưa ni sư, các tỳ khưu ni này (nói rằng): ‘Cô này là không người bảo hộ lại ngu dốt. Không còn cô kia thì ai sẽ lên tiếng phản đối’ rồi đã phạt án treo tôi trong việc không nhìn nhận tội.” Tỳ khưu ni Thullanandā (nói rằng): “Những cô ấy thì ngu dốt! Những cô ấy không kinh nghiệm! Những cô ấy không biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta mới biết về hành sự hoặc sự sai trái của hành sự hoặc sự hư hỏng của hành sự hoặc sự thành tựu của hành sự. Chúng ta có thể thực hiện hành sự chưa được thực hiện hoặc có thể hủy bỏ hành sự đã được thực hiện,” rồi đã mau mau triệu tập hội chúng tỳ khưu ni và đã phục hồi cho tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm lại phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đạo Sư, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Hội chúng hợp nhất nghĩa là có sự đồng cộng trú được thiết lập trong cùng ranh giới.

Bị phạt án treo nghĩa là bị phạt án treo trong việc không nhìn nhận tội, hoặc trong việc không sửa chữa lỗi, hoặc trong việc không từ bỏ tà kiến ác.

Theo Pháp, theo Luật: theo Pháp nào đó, theo Luật nào đó.

Theo lời giáo huấn của bậc Đạo Sư: theo lời giáo huấn của đấng Chiến Thắng, theo lời giáo huấn của đức Phật.

Khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự: khi chưa hỏi ý hội chúng đã làm hành sự.

Không quan tâm đến ước muốn của nhóm: không biết đến ước muốn của nhóm. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ phục hồi” rồi tìm kiếm nhóm (tỳ khưu ni) hoặc chỉ định ranh giới thì phạm tội dukkaṭa. Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tội thullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni phục hồi thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni phục hồi thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni phục hồi thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tội dukkaṭa.

Vị ni phục hồi sau khi đã xin phép hội chúng thực hiện hành sự, phục hồi sau khi đã quan tâm đến ước muốn của nhóm, phục hồi vị ni đang thực hành các phận sự, phục hồi khi hội chúng thực hiện hành sự không còn tồn tại, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ tư.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ năm

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Nhiều người, sau khi nhìn thấy tỳ khưu ni Sundarīnandā ở trong nhà ăn, bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng các thức ăn thượng hảo hạng. Tỳ khưu ni Sundarīnandā thọ thực được như ý thích. Các tỳ khưu ni khác nhận lãnh không được như ý.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Sundarīnandā nhiễm dục vọng lại tự tay thọ nhận vật thực loại cứng loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai và ăn vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào nhiễm dục vọng tự tay thọ nhận vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng rồi nhai hoặc ăn, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

(Nữ) nhiễm dục vọng nghĩa là người nữ có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.

(Nam) nhiễm dục vọng nghĩa là người nam có dục vọng, có sự khao khát, có tâm quyến luyến.

Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng bị dục chiếm ngự.

Vật thực cứng nghĩa là trừ ra năm loại vật thực (mềm), nước và tăm xỉa răng, phần còn lại gọi là vật thực cứng.

Vật thực mềm nghĩa là năm loại vật thực (gồm có) cơm, xúp, bánh, cá, thịt. (Nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội thullaccaya. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội saṅghādisesa.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội thullaccaya.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng cả hai, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận từ tay của Dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người thì phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội thullaccaya. Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía, vị ni (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần nuốt xuống thì phạm tội dukkaṭa. Vị ni thọ nhận nước và tăm xỉa răng thì phạm tội dukkaṭa.

Cả hai không nhiễm dục vọng, trong khi biết rằng: ‘Là người nam không nhiễm dục vọng’ rồi thọ nhận, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ năm.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ sáu

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Sundarīnandā là đẹp dáng, đáng nhìn, khả ái. Nhiều người, sau khi nhìn thấy tỳ khưu ni Sundarīnandā ở trong nhà ăn, bị nhiễm dục vọng rồi dâng đến tỳ khưu ni Sundarīnandā các thức ăn thượng hảo hạng. Tỳ khưu ni Sundarīnandā trong lúc ngần ngại nên không thọ nhận. Vị tỳ khưu ni đứng kế đã nói với tỳ khưu ni Sundarīnandā điều này: – “Này ni sư, vì sao ni sư lại không thọ nhận?” – “Này ni sư, là những người nam nhiễm dục vọng.” – “Này ni sư, ni sư mới nhiễm dục vọng.” – “Này ni sư, tôi không nhiễm dục vọng.” – “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao vị tỳ khưu ni lại nói như vầy: ‘Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi’?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói vị tỳ khưu ni nói như vầy: ‘Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi,’ có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao vị tỳ khưu ni lại nói như vầy: ‘Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi’? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: ‘Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi;’ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Nói như vầy: Vị ni xúi giục rằng: “Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, cá nhân người đàn ông ấy dâng vật thực loại cứng hoặc loại mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi hãy nhai hoặc ăn đi” thì phạm tội dukkaṭa. Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần (vị ni kia) nuốt xuống thì (vị ni xúi giục) phạm tội thullaccaya. Khi chấm dứt bữa ăn thì (vị ni xúi giục) phạm tội saṅghādisesa.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

Ngay lúc vừa mới vi phạm: vị ni vi phạm do thực hiện sự việc, không phải do sự nhắc nhở.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Vị ni xúi giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tội dukkaṭa. Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa.

Trường hợp bị nhiễm dục vọng một phía, đối với vật thực loại cứng hoặc loại mềm từ tay của Dạ-xoa nam hoặc ma nam hoặc người nam vô căn hoặc loài thú đực dạng người, vị ni xúi giục rằng: “Hãy nhai hoặc ăn đi” thì phạm tội dukkaṭa. Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa. Mỗi lần (vị ni kia) nuốt xuống thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa. Khi chấm dứt bữa ăn thì (vị ni xúi giục) phạm tội thullaccaya. Vị ni xúi giục rằng: “Hãy thọ nhận nước và tăm xỉa răng” thì phạm tộidukkaṭa. Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn” rồi thọ nhận thì (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa.

Vị ni trong khi biết rằng: ‘Là người nam không nhiễm dục vọng’ rồi xúi giục, vị ni (nghĩ rằng): ‘Cô ta (sẽ) nổi giận và không thọ nhận’ rồi xúi giục, vị ni (nghĩ rằng): ‘Cô ta (sẽ) không thọ nhận vì lòng thương hại đến gia đình’ rồi xúi giục, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ sáu.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ bảy

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī sau khi gây gỗ với các tỳ khưu ni đã nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: – “Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Caṇḍakāḷī khi nổi giận, bất bình lại nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy’?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, ―(như trên)― Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy,’ có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī khi nổi giận, bất bình lại nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy’? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy. Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.

Nói như vầy: “Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.”

Vị tỳ khưu ni ấy: vị tỳ khưu ni nào nói như thế ấy.

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, khi nổi giận, bất bình chớ nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.’ Này ni sư, hãy hoan hỷ, Pháp đã được khéo thuyết giảng, hãy thực hành Phạm hạnh một cách đúng đắn để chấm dứt khổ đau.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Tôi lìa bỏ đức Phật, tôi lìa bỏ Giáo Pháp, tôi lìa bỏ Hội Chúng, tôi lìa bỏ sự học tập. Các nữ Sa-môn Thích nữ này là các nữ Sa-môn hạng gì? Cũng có những nữ Sa-môn khác khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, tôi sẽ thực hành Phạm hạnh trong sự hiện diện của các nữ Sa-môn ấy.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)―Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)― Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ bảy.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ tám

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: – “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi’?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi,’có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Caṇḍakāḷī bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi’? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi. Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ, vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Trong cuộc tranh tụng nào đó: Tranh tụng nghĩa là có bốn sự tranh tụng: sự tranh tụng liên quan đến tranh cãi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên quan đến tội, sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.

Bị xử thua nghĩa là bị thất bại được đề cập đến.

Nổi giận, bất bình: không được hài lòng, có tâm bực bội, nảy sanh lòng cay cú.

Nói như vầy: “Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì ghét, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì si mê, các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.”

Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni nói như thế ấy.

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, mới thiên vị vì ghét, mới thiên vị vì si mê, mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó rồi nổi giận, bất bình chớ nên nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Chính ni sư mới thiên vị vì thương, ―(như trên)― mới thiên vị vì sợ hãi.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Vị tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

 Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó nên nổi giận, bất bình rồi nói như vầy: ‘Các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì thương, ―(như trên)― các tỳ khưu ni có sự thiên vị vì sợ hãi.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)― Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)― Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ tám.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ chín

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ni học trò của tỳ khưu ni Thullanandā sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau.

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu ni lại sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau?” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau, có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao các tỳ khưu ni lại sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau vậy? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Hơn nữa, các tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà các tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, các tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ các vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Hơn nữa, các tỳ khưu ni: là các người nữ đã tu lên bậc trên được đề cập đến.

Sống thân cận (với thế tục): sống thân cận bằng (hành động thuộc về) thân và khẩu không đúng đắn.

Có hạnh kiểm xấu xa: được hội đủ sở hành xấu xa.

Có tiếng đồn xấu xa: được lan rộng bởi lời đồn đãi về tiếng tăm xấu xa.

Có sự nuôi mạng xấu xa: các vị duy trì sự sống bằng việc nuôi mạng sai trái xấu xa.

Là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni: các vị phản đối trong khi hành sự đang được thực hiện cho từng vị.

Là những người che giấu tội lẫn nhau: các vị là những người che giấu tội qua lại cho nhau.

Các tỳ khưu ni ấy: là các vị tỳ khưu ni sống thân cận (với thế tục).

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Các tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (các vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Các vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)― Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)― Các tỳ khưu ni tên (như vầy) và tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya . Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực. Hai ba vị ni nên được nhắc nhở chung (một lượt), không nên nhắc nhở nhiều hơn số lượng ấy.

Các tỳ khưu ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: các vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: ―(như trên)― vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, các vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Các vị ni chưa được nhắc nhở, các vị ni dứt bỏ, các vị ni bị điên, các vị ni có tâm bị rối loạn, các vị ni bị thọ khổ hành hạ, các vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ chín.

–ooOoo–

Điều Saṅghādisesa thứ mười

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthī, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, tỳ khưu ni Thullanandā bị hội chúng nhắc nhở nên nói với các tỳ khưu ni như vầy: – “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’”

Các tỳ khưu ni nào ít ham muốn, ―(như trên)― các vị ni ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao ni sư Thullanandā khi được hội chúng nhắc nhở lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ?’” Sau đó, các tỳ khưu ni ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các vị tỳ khưu phàn nàn phê phán chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi được hội chúng nhắc nhở lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ?’” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, nghe nói tỳ khưu ni Thullanandā bị hội chúng nhắc nhở nên nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ,’ có đúng không vậy?”

– “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ni Thullanandā khi được hội chúng nhắc nhở lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ’? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Và này các tỳ khưu, các tỳ khưu ni hãy phổ biến điều học này như vầy:

“Vị tỳ khưu ni nào nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’

Vị tỳ khưu ni ấy nên được nói bởi các tỳ khưu ni như sau: ‘Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Và khi được nói như vậy bởi các tỳ khưu ni mà vị tỳ khưu ni ấy vẫn chấp giữ y như thế, vị tỳ khưu ni ấy nên được các tỳ khưu ni nhắc nhở đến lần thứ ba để từ bỏ việc ấy. Nếu được nhắc nhở đến lần thứ ba mà dứt bỏ việc ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ vị tỳ khưu ni này cũng phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba, là tội saṅghādisesa cần được tách riêng.”

Vị ni nào: là bất cứ vị ni nào ―(như trên)―

Tỳ khưu ni: ―(như trên)― vị ni này là ‘vị tỳ khưu ni’ được đề cập trong ý nghĩa này.

Nói như vầy: “Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng với sự không tôn trọng: với sự khinh khi. Với sự xem thường: với sự chê bai. Không lòng nhẫn nại: với sự nóng giận. Theo lối nói tầm phào: việc nói tầm phào đã được thực hiện. Có tính chất yếu nhược: có tính chất không phe nhóm. Đã nói như vầy: “Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.”

Vị tỳ khưu ni ấy: là vị tỳ khưu ni nói như thế ấy.

Bởi các tỳ khưu ni: bởi các tỳ khưu ni khác. Các vị ni nào thấy, các vị ni nào nghe, các vị ni ấy nên nói rằng: “Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ni sau khi nghe mà không nói thì phạm tội dukkaṭa. Tỳ khưu ni ấy nên được kéo đến giữa hội chúng rồi nên được nói rằng: “Này ni sư, chớ nói như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác ―(như trên)― Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’” Nên được nói đến lần thứ nhì. ―(như trên)― Nên được nói đến lần thứ ba. ―(như trên)― Nếu (vị ni ấy) dứt bỏ, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không dứt bỏ thì phạm tội dukkaṭa. Tỳ khưu ni ấy cần được nhắc nhở. Và này các tỳ khưu, nên được nhắc nhở như vầy: Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu ni có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi được hội chúng nhắc nhở lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: ‘Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đây là lời đề nghị.

Bạch chư đại đức ni, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Tỳ khưu ni này tên (như vầy) khi được hội chúng nhắc nhở lại nói với các tỳ khưu ni như vầy: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác. Trong hội chúng cũng có những tỳ khưu ni khác có hạnh kiểm như vậy, có tiếng đồn như vậy, có sự nuôi mạng như vậy, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau; hội chúng đã không nói các cô ấy bất cứ điều gì. Nhưng với chính các cô, hội chúng đã nói với sự không tôn trọng, với sự xem thường, không lòng nhẫn nại, theo lối nói tầm phào, có tính chất yếu nhược như vầy: Các sư tỷ sống thân cận (với thế tục), có hạnh kiểm xấu xa, có tiếng đồn xấu xa, có sự nuôi mạng xấu xa, là những người gây khó khăn cho hội chúng tỳ khưu ni, và là những người che giấu tội lẫn nhau. Này các ni sư, hãy tự tách rời ra. Hội chúng khen ngợi sự tách rời của các sư tỷ.’ Vị ni ấy không chịu từ bỏ sự việc ấy. Hội chúng nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy. Đại đức ni nào đồng ý việc nhắc nhở tỳ khưu ni tên (như vầy) để dứt bỏ sự việc ấy xin im lặng; vị ni nào không đồng ý có thể nói lên. Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: ―(như trên)― Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: ―(như trên)― Tỳ khưu ni tên (như vầy) đã được hội chúng nhắc nhở để dứt bỏ sự việc ấy. Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Do lời đề nghị thì phạm tội dukkaṭa. Do hai lời thông báo của hành sự thì phạm các tộithullaccaya. Khi chấm dứt tuyên ngôn hành sự thì phạm tội saṅghādisesa. Đối với vị ni vi phạm tội saṅghādisesa, thì tội dukkaṭa do lời đề nghị và các tội thullaccaya do hai lời thông báo của hành sự hết hiệu lực.

Vị ni này cũng: được đề cập có liên quan đến các vị ni trước đây.

(Khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba: vị ni vi phạm tội do sự nhắc nhở đến lần thứ ba, không phải do thực hiện sự việc.

Cần được tách riêng: bị tách riêng ra khỏi hội chúng.

Tội saṅghādisesa: Chỉ có hội chúng–không phải một số vị, không phải một cá nhân–ban cho hành phạt mānatta của tội ấy, cho thực hành lại từ đầu, cho giải tội; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’ Là việc định danh, tức là việc đặt tên cho cả nhóm tội giống như tội ấy; vì thế được gọi là ‘tội saṅghādisesa.’

Hành sự đúng Pháp, nhận biết là hành sự đúng Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, có sự hoài nghi, vị ni không dứt bỏ thì phạm tộisaṅghādisesa. Hành sự đúng Pháp, (lầm) tưởng là hành sự sai Pháp, vị ni không dứt bỏ thì phạm tội saṅghādisesa.

Hành sự sai Pháp, (lầm) tưởng là hành sự đúng Pháp, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, có sự hoài nghi, phạm tội dukkaṭa. Hành sự sai Pháp, nhận biết là hành sự sai Pháp, phạm tộidukkaṭa.

Vị ni chưa được nhắc nhở, vị ni dứt bỏ, vị ni bị điên, ―(như trên)― vị ni vi phạm đầu tiên thì vô tội.”

Điều saṅghādisesa thứ mười.

–ooOoo–

Bạch chư đại đức ni, mười bảy điều saṅghādisesa[11] đã được đọc tụng xong, chín điều bị phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm, tám điều (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba. Vị tỳ khưu ni vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì vị tỳ khưu ni ấy nên thực hành nửa tháng mānatta nơi có cả hai hội chúng. Vị tỳ khưu ni có hành phạt mānatta đã được hoàn tất thì vị tỳ khưu ni ấy nên được giải tội tại nơi nào có hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị. Nếu hội chúng tỳ khưu ni nhóm hai mươi vị chỉ thiếu đi một mà giải tội cho vị tỳ khưu ni ấy thì vị tỳ khưu ni ấy chưa được giải tội và các tỳ khưu ni ấy bị khiển trách. Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy. Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức ni rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Chư đại đức ni được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.

–ooOoo–

Tóm lược các điều này

Việc kiện tụng, nữ đạo tặc, trong làng, bị án treo, và bởi việc nhai, việc gì với ni sư, bị nổi giận, ở sự việc nào đó, (sống) thân cận, và với sự khinh khi; các điều ấy là mười.

Dứt Mười Bảy Pháp.

–ooOoo–

[9] Không rõ lý do vì vị ni Bhaddā Kāpilānī này không có danh xưng ‘tỳ khưu ni’ (ND).

[10] Timaṇḍalaṃ: ba vòng nghĩa là vòng bụng ở rốn và hai vòng ở đầu gối.

[11] Ngài Buddhaghosa giải thích về 17 điều saṅghādisesa của tỳ khưu ni như sau: Phần phạm tội ngay lúc vừa mới vi phạm gồm có điều 5 (mai mối), 8 và 9 (hai điều về vu cáo) ở giới bổn của tỳ khưu và 6 điều ở đây. Phần phạm tội (khi được nhắc nhở) đến lần thứ ba gồm 4 điều từ 10-13 ở giới bổn của tỳ khưu và 4 điều ở đây. Tổng cộng là 17 điều (VinA. iv, 916).

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)