Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm Hai Kệ Ngôn, Phẩm 1 – 5
MAIN CONTENT
- Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm hai kệ ngôn, Phẩm 1 – 5
- ▪ 1. PHẨM CỨNG RẮN
- 1. Bổn sanh Giáo Giới Đức Vua.
- 2. Bổn sanh Con Chó Rừng.
- 3. Bổn sanh Con Heo Rừng.
- 4. Bổn sanh Con Rắn.
- 5. Bổn sanh Gagga.
- 6. Bổn sanh Hoàng Tử Alīnacitta
- 8. Bổn sanh Con Ngựa Suhanu
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- 2. Bổn sanh Sự Thân Thiết.
- 4. Bổn sanh Chim Diều Hâu
- 5. Bổn sanh Con Chồn.
- 9. Bổn sanh Đạo Sư Araka
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 3. PHẨM PHÁP TỐT LÀNH
- 2. Bổn sanh Núi Daddara
- 3. Bổn sanh Con Khỉ
- 6. Bổn sanh Nắm Tay Hạt Đậu
- 7. Bổn sanh Cây Tinduka.
- 8. Bổn sanh Con Rùa
- 9. Bổn sanh Bà-la-môn Satadhamma
- 10. Bổn sanh Vật Khó Cho
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 4. PHẨM KHÔNG THỂ SÁNH BẰNG
- 1. Bổn sanh Không Thể Sánh Bằng
- 2. Bổn sanh Quen Thuộc Chiến Trận.
- 3. Bổn sanh Nước Đã Được Chắt Lọc
- 4. Bổn sanh Mã Phu Giridatta
- ”5. Bổn sanh Không Hứng Thú
- 6. Bổn sanh Vua Dadhivāhana
- 7. Bổn sanh Bốn Điều Làm Say Đắm
- 8. Bổn sanh Chó Rừng Lai Sư Tử
- 9. Bổn sanh Tấm Da Sư Tử
- 10. Bổn sanh Lợi Ích Của Giới
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 5. PHẨM QUAN TẾ TỰ RUHAKA
- 1. Bổn sanh Quan Tế Tự Ruhaka
- 2. Bổn sanh May Mắn và Bất Hạnh
- 3. Bổn sanh Vua Cullapaduma
- 4. Bổn sanh Kẻ Cướp Ngọc Ma-ni
- 5. Bổn sanh Khu Vực Ở Chân Núi
- 6. Bổn sanh Con Ngựa Bay
- 7. Bổn sanh Bạn và Thù
- 8. Bổn sanh Con Vẹt Rādha
- 9. Bổn sanh Chủ Nhà
- 10. Bổn sanh Giới Hạnh Tốt Lành
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm hai kệ ngôn, Phẩm 1 – 5
▪ 1. DAḶHAVAGGO
▪ 1. PHẨM CỨNG RẮN
151. Daḷhaṃ daḷhassa khipati malliko mudunā muduṃ, sādhumpi sādhunā jeti asādhumpi asādhunā, etādiso ayaṃ rājā maggā uyyāhi sārathi.
151. Vua Mallika chứng tỏ sự cứng rắn đối với người cứng rắn, sự mềm mỏng đối với người mềm mỏng, chiến thắng người tốt bằng điều tốt, người không tốt bằng điều không tốt. Vị vua này là như thế ấy, này xa phu, hãy nhường đường.
Mal-li-ka xử sự
Cứng rắn đối cứng rắn,
Mềm mỏng đối mềm mỏng,
Thiện đức đối thiện đức,
Bất thiện đối bất thiện,
Vua này là như vậy,
Này bạn đánh xe ơi,
Hãy nhường đường vua ta.
152. Akkodhena jine kodhaṃ asādhuṃ sādhunā jine, jine kadariyaṃ dānena saccena alikavādinaṃ, etādiso ayaṃ rājā maggā uyyāhi sārathī ”ti.
1. Rājovādajātakaṃ.
152. Nên chinh phục người giận dữ bằng sự không giận dữ, nên chinh phục người không tốt bằng điều tốt, nên chinh phục người bỏn xẻn bằng sự bố thí, (nên chinh phục) người có lời nói sai trái bằng sự chân thật. Vị vua này là như thế ấy, này xa phu, hãy nhường đường.
1. Bổn sanh Giáo Giới Đức Vua.
Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chân thắng hư ngụy.
Vua này là như vậy,
Này bạn đánh xe ơi!
Hãy nhường đường vua ta.
153. Asamekkhitakammantaṃ turitābhinipātinaṃ, sāni kammāni tappenti uṇhaṃ vajjhohitaṃ mukhe.
153. Đối với kẻ vội vã lao vào công việc chưa được xem xét, các việc làm của gã khiến cho gã bực bội, tựa như thức ăn nóng được nuốt vào miệng.
Ai làm không đắn đo,
Hấp tấp làm vội vã,
Như ăn đồ ăn nóng,
Bị bỏng miệng mà chết.
154. Sīho ca sīhanādena daddaraṃ abhinādayi, sutvā sīhassa nigghosaṃ sigālo daddare vasaṃ, bhīto santāsamāpādi hadayañcassa apphalī ”ti.
2. Sigālajātakaṃ.
154. Và con sư tử, với tiếng rống sư tử, đã rống lên ở núi Daddara. Sau khi nghe được tiếng gầm thét của con sư tử, con chó rừng đang sống ở núi Daddara, bị kinh sợ, đã phải run lẩy bẩy, và quả tim của nó đã vỡ đôi.
2. Bổn sanh Con Chó Rừng.
Chính trên Da-da-ra
Sư tử rống tiếng rống
Khiến núi ấy vang động,
Nghe tiếng con sư tử,
Con chó rừng ở núi,
Hoảng hốt, sợ khiếp đảm,
Quả tim nó vỡ đôi,
Tại đấy, nó mệnh chung.
155. Catuppado ahaṃ samma tvampi samma catuppado, ehi sīha nivattassu kinnu bhīto palāyasi.
155. Này anh bạn, ta là loài bốn chân. Này anh bạn, ngươi cũng là loài bốn chân. Hãy đến, này sư tử, hãy quay lại. Ngươi sợ cái gì mà chạy trốn?
Này bạn, ta bốn chân,
Bạn cũng vật bốn chân.
Sư tử hãy quay lại,
Sao bạn sợ, chạy trốn?
156. Asūci pūtilomosi duggandho vāsi sūkara, sace yujjhitukāmosi jayaṃ samma dadāmi te ”ti.
3. Sūkarajātakaṃ.
156. Ngươi không sạch sẽ, bộ lông dơ dáy, này heo rừng, ngươi toát ra mùi hôi thối. Nếu ngươi muốn đánh nhau, này anh bạn, ta cho ngươi thắng trận.
3. Bổn sanh Con Heo Rừng.
Lông da ngươi dơ bẩn,
Heo rừng, ngươi hôi thối,
Nếu ngươi muốn đánh nhau,
Ta cho ngươi thắng trận!
157. Idhūragānaṃ pavaro paviṭṭho selassa vaṇṇena pamokkhamicchaṃ, brahmañca vaṇṇaṃ apacāyamāno bubhukkhito no visahāmi bhottuṃ.
157. Chúa của bầy rắn đã đi vào chỗ này, trong khi ước muốn việc (con rắn) ra khỏi hình dạng của viên đá, trong khi tôn kính hình bóng Phạm hạnh, dầu bị đói, nhưng con không mạo hiểm ăn (con rắn).
Ở đây đã trốn vào
Vị vua các loài rắn,
Con muốn giải thoát nó,
Khỏi hình hòn đá ngọc,
Và vì trọng Phạm hạnh,
Dầu đói, con không bắt.
158. So brahmagutto cirameva jīva dibbā ca te pātubhavantu bhakkhā, yo brahmavaṇṇaṃ apacāyamāno bubhukkhito no visahāsi bhottun ”ti.
4. Uragajātakaṃ.
158. Ngươi đây được Phạm hạnh hộ trì, ngươi hãy sống trường thọ, và thức ăn của cõi Trời hãy hiện ra cho ngươi. Là người tôn kính hình bóng Phạm hạnh, dầu bị đói, nhưng ngươi không mạo hiểm ăn (con rắn).
4. Bổn sanh Con Rắn.
Mong ngươi sống lâu ngày
Ðược Phạm thiên hộ trì,
Luôn hưởng món chư Thiên,
Mong ngươi được đầy đủ,
Vì kính trọng Phạm hạnh,
Dầu đói, chớ ăn nó.
159. Jīva vasassataṃ gagga aparāni ca vīsatiṃ, mā maṃ pisācā khādantu jīva tvaṃ saradosataṃ.
159. Thưa cha Gagga, mong cha hãy sống trăm năm, và thêm hai mươi năm khác nữa. Các yêu tinh chớ có ăn thịt tôi. Mong cha hãy sống trăm năm.
Mong cha sống trăm năm,
Cộng thêm hai mươi tuổi,
Mong quỷ không ăn cha,
Mong cha sống trăm thu!
160. Tvampi vassasataṃ jīva aparāni ca vīsatiṃ, visaṃ pisācā khādantu jīva tvaṃ saradosatan ”ti.
5. Gaggajātakaṃ.
160. Mong con cũng sống được trăm năm, và thêm hai mươi năm khác nữa. Các yêu tinh hãy ăn thuốc độc. Mong con hãy sống trăm năm.
5. Bổn sanh Gagga.
Mong con sống trăm năm,
Cộng thêm hai mươi tuổi,
Mong quỷ ăn thuốc độc
Còn con sống trăm thu!
161. Alīnacittaṃ nissāya pahaṭṭhā mahatī camū, kosalaṃ senāsantuṭṭhaṃ jīvagāhaṃ agāhayi.
161. Nương tựa vào hoàng tử Alīnacitta, đạo binh to lớn, được phấn khởi, đã ra lệnh bắt sống vua Kosala, kẻ không vừa lòng với vương quốc của mình.
Chính vì Tâm thâu phục,
Ðội quân lớn hân hoan,
Bắt vua Ko-sa-la,
Tham lam, không biết đủ
Với những gì mình có,
Làm quân đội bằng lòng.
162. Evaṃ nissayasampanno bhikkhu āraddhaviriyo, bhāvayaṃ kusalaṃ dhammaṃ yogakkhemassa pattiyā, pāpuṇe anupubbena sabbasaṃyojanakkhayan ”ti.
6. Alīnacittajātakaṃ.
162. Tương tự như thế, vị tỳ khưu đầy đủ pháp nương nhờ, có sự ra sức tinh tấn, trong lúc tu tập thiện pháp nhằm đạt đến sự an toàn đối với các trói buộc, có thể đạt được theo tuần tự sự cạn kiệt của tất cả các ràng buộc.
6. Bổn sanh Hoàng Tử Alīnacitta
Cũng vậy vị Tỷ-kheo
Tinh cần, nương tựa đủ,
Tu tập theo thiện pháp,
Ðạt an ổn khổ ách,
Tuần tự chứng đạt được
Ðoạn diệt mọi kiết sử.
163. Yena kāmaṃ paṇāmeti dhammo balavataṃ migī, unnadantī vijānāhi jātaṃ saraṇato bhayaṃ.
163. Con sư tử cái hành động theo như ý thích, ả đang gầm thét; điều ấy là quy luật của những kẻ có sức mạnh, ngươi hãy nhận biết (như vậy). Sự sợ hãi sanh ra từ sự nương tựa.
Muốn gì làm cho được,
Là thường pháp kẻ mạnh,
Con cái rống, tôi biết,
Trước tôi nương, nay sợ.
164. Api cepi dubbalo mitto mittadhammesu tiṭṭhati, so ñātako ca bandhu ca so mitto so ca me sakhā, dāṭhini mātimaññittho sigālo mama pāṇado ”ti.
7. Guṇajātakaṃ.
164. Tuy nhiên, nếu người bạn, dầu là yếu đuối, tồn tại trong các quy luật về tình bạn, kẻ ấy là thân quyến và là bà con, kẻ ấy là bạn, kẻ ấy là bằng hữu của ta. Này ả có răng nanh (sư tử cái), chớ có khinh khi (kẻ ấy), con chó rừng là kẻ đã ban cho ta mạng sống.
7. Bổn sanh Công Đức.
Dù nhỏ bé, yếu đuối,
Vẫn kiên trì tình bạn,
Chính bà con thân thích,
Này vợ răng nanh ta!
Chớ khinh miệt bạn ấy,
Chính con chó rừng này
Ðã cho ta mạng sống.
165. Na idaṃ visamasīlena soṇena suhanussaha, suhanūpi tādisoyeva yo soṇassa sa gocaro.
165. Con ngựa Suhanu này với con ngựa Soṇa có bản tính khác biệt là không đúng, con ngựa Suhanu cũng y như con ngựa kia, là có cùng hành xứ với con ngựa Soṇa.
Loài vật tính không khác,
So-na, và Su-ha-nu,
Cả hai đều hòa hợp,
Su-ha-nu giống như vậy,
Cùng loài với So-na.
166. Pakkhandinā pagabbhena niccaṃ sandānakhādinā, sameti pāpaṃ pāpena sameti asatā asan ”ti.
8. Suhanujātakaṃ.
166. Do sự xông xáo, do sự xấc xược, do việc thường xuyên nhai gặm dây cương, cái xấu với cái xấu gặp nhau, cái không tốt với cái không tốt gặp nhau.
8. Bổn sanh Con Ngựa Suhanu
Hoang dã và ác độc,
Thường cắn những dây cương,
Như vậy ác, ác đồng,
Bất thiện, bất thiện đồng.
167. Udetayaṃ cakkhumā ekarājā harissavaṇṇo paṭhavippabhāso, taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavippabhāsaṃ tayajja guttā viharemu divasaṃ.
167. Vị này mọc lên, là bậc có mắt, vị vua độc nhất, có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Tôi lễ bái ngài ấy, bậc có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Hôm nay, được bảo vệ bởi ngài, chúng tôi có thể sống (an toàn) trọn ngày.
Hãy mọc lên, mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền.
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo hộ ta
Sống an toàn trọn ngày.
168. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme te me namo te ca maṃ pālayantu, namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā. Imaṃ so parittaṃ katvā moro carati esanā.
168. Những vị nào là các bậc Bà-la-môn, đã thông hiểu tất cả các pháp, tôi kính lễ các vị ấy, và mong các vị ấy hộ trì đến tôi. Xin kính lễ đến các bậc đã giác ngộ, xin kính lễ đến sự giác ngộ. xin kính lễ đến các bậc đã giải thoát, xin kính lễ đến sự giải thoát. Sau khi đã thực hiện sự bảo vệ này, con công ấy đi kiếm ăn.
Các vị Thánh, chân nhân,
Bậc tuệ tri mọi pháp,
Con đảnh lễ các Ngài
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.
169. Apetayaṃ cakkhumā ekarājā harissavaṇṇo paṭhavippabhāso,taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ paṭhavip3pabhāsaṃ tayajja guttā viharemu rattiṃ.
169. Vị này biến mất, là bậc có mắt, vị vua độc nhất, có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Tôi lễ bái ngài ấy, bậc có sắc vàng chói, có sự chiếu sáng trái đất. Hôm nay, được bảo vệ bởi ngài, chúng tôi có thể sống (an toàn) trọn đêm.
Hãy lặn xuống mặt trời,
Vua độc nhất có mắt,
Với màu sắc vàng chói,
Sáng rực cả đất liền;
Và ta đảnh lễ ngài,
Bậc chói vàng quả đất,
Nay hãy bảo vệ ta
Sống an toàn trọn đêm.
170. Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme te me namo te ca maṃ pālayantu, namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā. Imaṃ so parittaṃ katvā moro vāsamakappayī ”ti.
9. Morajātakaṃ.
170. Những vị nào là các bậc Bà-la-môn, đã thông hiểu tất cả các pháp, tôi kính lễ các vị ấy, và mong các vị ấy hộ trì đến tôi. Xin kính lễ đến các bậc đã giác ngộ, xin kính lễ đến sự giác ngộ. xin kính lễ đến các bậc đã giải thoát, xin kính lễ đến sự giải thoát. Sau khi đã thực hiện sự bảo vệ này, con công ấy đã sắp xếp chỗ cư ngụ.
9. Bổn sanh Con Công.
Chư vị thánh, chân nhân,
Bậc tuệ trí mọi pháp,
Con đảnh lễ các ngài,
Hãy hộ trì cho con.
Ðảnh lễ chư Phật-đà,
Ðảnh lễ Bồ-đề vị,
Ðảnh lễ bậc giải thoát,
Ðảnh lễ giải thoát vị.
171. Evameva nūna rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahaṃ, assā vahanti ājaññā yathā haṃsā vinīlakaṃ.
171. Thật vậy, các con ngựa thuần chủng đưa rước đức vua trị vì ở thành Mithilā, xứ Videha, giống y như cách các con thiên nga đưa Vinīlaka đi vậy.
Giống vua Vi-de-ha
Ðược các ngựa thuần chủng
Kéo ngang các ngôi nhà
Tại thành Mi-thi-là,
Cũng vậy, Vi-nì-là
Ðược hai ngỗng trời chở
Giữa hư không bao la!
172. Vinīla duggaṃ bhajasi abhūmiṃ tāta sevasi, gāmantikāni sevassu etaṃ mātālayaṃ tavā ”ti.
10. Vinīlakajātakaṃ.
172. Này Vinīla, con đi đến nơi hiểm trở. Này con thân, con lai vãng chốn không thích hợp. Con hãy lai vãng các chỗ ven làng, chỗ ngụ ấy là của mẹ con.
10. Bổn sanh Vinīlaka
Vi-ni-ka, con thân,
Sống ở đây nguy hiểm,
Ðây không chỗ cho mày,
Hãy sống tại cổng làng,
Nơi mẹ mày mong đợi,
Hãy đến đó vội vàng!Câu chuyện 160
Daḷhavaggo paṭhamo.
*****
Phẩm Cứng Rắn là thứ nhất.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Varamallikadaddarasūkarako uraguttama pañcama gaggavaro, mahatī camū yā ca sigālavaro suhanuttamamoravinīla dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Vua Mallika cao quý, núi Daddara, con heo rừng, con rắn chúa, và thứ năm là chuyện Gagga, đạo binh to lớn, và chuyện con chó rừng, con ngựa Suhanu, con công tối thượng, và Vinīla, là mười.
–ooOoo–
▪ 2. SANTHAVAVAGGO
▪ 2. PHẨM THÂN THIẾT
173. Na santhavaṃ kāpurisena kayirā ariyo hi ariyena pajānamatthaṃ, cirānuvutthopi karoti pāpaṃ gajo yathā indasamānagottaṃ.
173. “Không nên thể hiện sự thân thiết với người đê tiện, nhưng người cao thượng, trong khi nhận biết mục đích, (thể hiện sự thân thiết) với người cao thượng. Kẻ đê tiện, mặc dầu sống chung thời gian dài, vẫn làm điều ác độc, giống như con voi (đã làm điều ác độc) với ẩn sĩ Indasamānagotta.
Chớ giao du thân mật
Với kẻ ác, bất thiện,
Bậc Thánh biết rõ ràng
Xu hướng kẻ phi thánh,
Chóng hay chầy kẻ ác
Cũng sẽ làm điều ác,
Như voi với ẩn sĩ
In-da-sa-mà-na.
174. Yaṃ tveva jaññā sadiso mamanti sīlena paññāya sutena cāpi, teneva mettiṃ kayirātha saddhiṃ sukhāvaho sappurisena saṅgamo ”ti.
1. Indasamānagottajātakaṃ.
174. Nên biết người nào tương đương với mình về giới, về tuệ, và luôn cả về học thức. Nên thực hiện tình thân hữu với chính người ấy, sự kết giao với bậc chân nhân là nguồn dem lại sự an lạc.”
1. Bổn sanh Ẩn Sĩ Indasamānagotta.
Nếu ngươi thấy người nào
Biết kẻ ấy như mình
Về giới, về trí tuệ,
Và cả về nghe nhiều,
Hãy lựa người như vậy
Làm bạn thân giao du,
Sống với bậc chân nhân
Là sống chân hạnh phúc.
175. Na santhavasmā paramatthi pāpiyo yo santhavo kāpurisena hoti, santappito sappinā pāyasena kicchā kataṃ paṇṇakuṭiṃ adaḍḍhahi.
175. “Không có điều nào khác tai hại hơn sự thân thiết, là sự thân thiết với người đê tiện, Đã được thỏa mãn với bơ lỏng, với sữa, ngươi đã đốt cháy cái chòi lá đã được tạo nên một cách khó nhọc.
Không gì độc hại hơn
Là thân với kẻ ác,
Ðược đổ vào nuôi dưỡng
Với bơ chín, cháo sữa,
Ngọn lửa thiêu chòi lá
Ta dựng thất khó khăn.
176. Na santhavasmā paramatthi seyyo yo santhavo sappurisena hoti, sīhassa vyagghassa ca dīpino ca sāmā mukhaṃ lehati santhavenā ”ti.
2. Santhavajātakaṃ.
176. Không có điều nào khác tốt đẹp hơn sự thân thiết, là sự thân thiết với bậc chân nhân. Con nai cái liếm một cách thân mật khuôn mặt của con sư tử, của con cọp, và của con báo.”
2. Bổn sanh Sự Thân Thiết.
Không gì tốt lành hơn
Thân giao bạn chân thật;
Hãy xem con hươu đen
Thân mật liếm mặt mày,
Con sư tử, con cọp,
Và cả con báo nữa.
177. Kāḷā migā setadantā tava ime parosataṃ hemajālābhisañchannā, te te dadāmīti susīma brūsi anussaraṃ pettipitāmahānaṃ.
177. “Những con thú màu đen, có ngà trắng này của bệ hạ, có hơn một trăm con, được phủ lên bằng những tấm lưới bằng vàng. Tâu Susīma, có phải bệ hạ nói rằng: ‘Trẫm ban chúng cho khanh, trong lúc nhớ đến các cha ông (của khanh)?’
”Hơn 100 voi toàn đen
Với những ngà trắng bạch,
Bao phủ với lưới vàng,
Thần đều cúng Ðại vương!
Hỡi vua Su-si-ma,
Có phải Ngài đã nói,
Ngài có nhớ đến chăng
Quyền lợi tổ tiên thần?
178. Kāḷā migā setadantā mama ime parosataṃ hemajālābhisañchannā, te te dadāmīti vadāmi māṇava anussaraṃ pettipitāmahānan ”ti.
3. Susīmajātakaṃ.
178. “Những con thú màu đen, có ngà trắng này của trẫm, có hơn một trăm con, được phủ lên bằng những tấm lưới bằng vàng. Này người thanh niên, trẫm nói rằng: ‘Trẫm ban chúng cho khanh, trong lúc nhớ đến các cha ông (của khanh).’
”3. Bổn sanh Vua Susīma.
Hơn 100 voi vàng đen
Với những ngà trắng bạch
Bao phủ với lưới vàng,
Ðều thuộc sở hữu ta,
Ta nói, này thanh niên,
Ta cho khanh, cho khanh!
Ta thật có nhớ đến
Quyền lợi tổ tiên khanh.
179. Yannu gijjho yojanasataṃ kuṇapāni avekkhati, kasmā jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhasi.
179. “Chim kên kên nhìn thấy các tử thi cách xa một trăm do-tuần, tại sao sau khi đã chạm vào lưới và bẫy sập, mà ngươi vẫn không hay biết?”
Diều hâu thấy xác chết
Cách xa một trăm dặm,
Sao ngươi lại không biết
Va chạm lưới và bẫy?
180. Yadā parābhavo hoti poso jīvitasaṅkhaye, atha jālañca pāsañca āsajjāpi na bujjhatī ”ti.
4. Gijjhajātakaṃ.
180. “Trong lúc có nạn tai, vào thời kỳ tiêu hoại mạng sống, khi ấy, chúng sanh dầu đã chạm vào lưới và bẫy sập, thì cũng không hay biết.”
4. Bổn sanh Chim Diều Hâu
Chúng sanh gặp tai họa,
Mạng sống gần tiêu vong,
Khi ấy không thể biết,
Nên va chạm lưới bẫy.
181. Sandhiṃ katvā amittena aṇḍajena jalābuja, vivariya dāṭhaṃ sesi kuto taṃ bhayamāgataṃ.
181. “Này kẻ thai sanh, sau khi đã kết tình thân với kẻ thù là loài noãn sanh, ngươi nằm ngủ nhe cả răng nanh; sự sợ hãi ấy đã từ đâu đến?”
Này vật sanh bào thai,
Ngươi đã kết bạn được
Với kẻ thù của ngươi
Sanh ra từ hòn trứng,
Sao lại ngủ nhe răng?
Từ đâu ngươi sợ hãi?
182. Saṅketheva amittasmiṃ mittasmimpi na vissase, abhayā bhayamuppannaṃ api mūlāni kantatī ”ti.
5. Nakulajātakaṃ.
182. “Phải nên ngờ vực kẻ thù, cũng không nên tin tưởng bạn bè. Sự sợ hãi được sanh lên từ sự không sợ hãi, cũng nên cắt lìa các gốc rễ.”
5. Bổn sanh Con Chồn.
Chớ khinh thường kẻ thù,
Chớ tin tưởng bè bạn,
Từ không sợ, sợ sanh,
Cái gốc bị cắt đứt.
183. Upasāḷhakanāmānaṃ sahassāni catuddassa, asmiṃ padese daḍḍhāni natthi loke anāmataṃ.
183. “Mười bốn ngàn người có tên là Upasāḷhaka đã được thiêu đốt ở khu vực này. Không có chỗ nào ở trên thế gian là không có người chết.
Có mười bốn ngàn người
Tên U-pa-sàl-ha,
Bị thiêu tại chỗ này
Không chỗ nào trên đời
Lại không có người chết.
184. Yamhi saccañca dhammo ca ahiṃsā saṃyamo damo, etadariyā sevanti etaṃ loke anāmatan ”ti.
6. Upasāḷhajātakaṃ.
184. Ở nơi nào có sự chân thật, có pháp (vô thượng), có sự không hãm hại, có sự chế ngự, có sự rèn luyện, nơi ấy được các Thánh nhân thân cận, nơi ấy ở trên thế gian là không có người chết.”
6. Bổn sanh Bà-la-môn Upasāḷha.
Chỗ nào có chân lý,
Chánh pháp và bất hại,
Có tiết chế, điều ngự,
Chỗ ấy, bậc Thánh sống.
Chính chỗ ấy, thần chết
Không thể tìm lối vào.
185. Abhutvā bhikkhasi bhikkhu na hi bhutvāna bhikkhasi, bhutvāna bhikkhu bhikkhassu mā taṃ kālo upaccagā.
185. Này vị tỳ khưu, ngài hành pháp khất thực khi chưa thọ hưởng dục. Chẳng phải ngài nên thọ hưởng dục rồi mới hành pháp khất thực? Này vị tỳ khưu, ngài hãy thọ hưởng dục rồi hãy hành pháp khất thực, chớ để thời gian (hưởng dục) bỏ ngài mà đi!
Tỷ-kheo đi khuất thực,
Có biết hưởng dục chăng?
Chàng theo hạnh khất thực,
Không hưởng thọ dục lạc,
Tỷ-kheo, hãy hưởng dục,
Rồi sẽ hành khất thực,
Chàng chớ để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.
186. Kālaṃ vohaṃ na jānāmi channo kālo na dissati, tasmā abhutvā bhikkhāmi mā maṃ kālo upaccagā ”ti.
7. Samiddhijātakaṃ.
186. Quả thật ta không biết thời điểm (chết); thời điểm (chết) bị che đậy, không thấy được. Vì thế, ta không thọ hưởng dục và ta hành pháp khất thực, chớ để thời gian (hành pháp) bỏ ta mà đi!
7. Bổn sanh Trưởng Lão Samiddhi
Thời chết, ta không biết,
Thời gian bị ngăn che,
Do vậy, không hưởng thọ,
Ta hành trì khất thực,
Ta không để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.
187. Seno balasā patamāno lāpaṃ gocaraṭhāyinaṃ, sahasā ajjhappattova maraṇaṃ tenupāgami.
187. Con diều hâu, trong khi mạnh bạo lao xuống con chim cút đang đứng ở khu vực kiếm ăn, chính vì đã phóng đến một cách vội vã, vì thế, nó đã đi đến cái chết.
Diều hâu với sức mạnh
Sà xuống chụp con cút,
Con cút đang tìm mồi
Trên địa hạt của mình,
Vì sà chụp quá mạnh,
Diều hâu chết toi mạng.
188. Sohaṃ nayena sampanno pettike gocare rato, apetasattu modāmi sampassaṃ atthamattano ”ti.
8. Sakuṇagghijātakaṃ.
188. Đã thành tựu kế hoạch, ta đây thích thú ở khu vực kiếm ăn của cha ông. Với kẻ thù đã đi xa, ta vui thích, trong khi nhìn thấy sự lợi ích của mình.
8. Bổn sanh Chim Diều Hâu
Ta biết phương tiện hay,
Vui trên địa hạt nhà,
Ta mừng kẻ thù bại,
Thọ hưởng lợi ích mình.
189. Yo ve mettena cittena sabbalokānukampati, uddhaṃ adho ca tirayañca appamāṇena sabbaso.
189. “Thật vậy, người nào có lòng thương tưởng đối với toàn thể thế gian–ở bên trên, ở bên dưới, và ở chiều ngang (loài người)–với tâm từ ái vô lượng về mọi mặt, –
Ai chính với Từ tâm
Thương xót mọi thế giới
Trên, dưới và bề ngang,
Vô lượng trùm tất cả.
190. Appamāṇaṃ hitaṃ cittaṃ paripuṇṇaṃ subhāvitaṃ, yaṃ pamāṇakataṃ kammaṃ na taṃ tatrāvasissatī ”ti.
9. Arakajātakaṃ.
190. – tâm vô lượng, hữu ích, tròn đủ, khéo được phát triển ấy sẽ không trú vào nơi ấy, vào hành động được làm có tính chất hạn lượng.”
9. Bổn sanh Đạo Sư Araka
Tâm từ bi vô lượng
Viên mãn, khéo tu tập,
Với nghiệp có hạn lượng
Tâm ấy không chất chứa.
191. Nāyaṃ pure unnamati toraṇagge kakaṇṭako, mahosadha vijānāhi kena thaddho kakaṇṭako.
191. “Con tắc kè này ở trên đỉnh cổng chào, trước đây nó không ngước lên. Này Mahosadha, khanh có biết được vì sao con tắc kè lại ương ngạnh?”
Tắc kè thuở trước chẳng bò lên,
Khung cửa vòng cung, bậc Trí hiền,
Hãy giải thích ngay cho trẫm rõ,
Tắc kè sao cứng cổ như trên?
192. Aladdhapubbaṃ laddhānaṃ addhamāsaṃ kakaṇṭako, atimaññati rājānaṃ vedehaṃ mithilaggahan ”ti.
10. Kakaṇṭakajātakaṃ.
192. “Sau khi nhận được nửa đồng tiền chưa từng nhận được trước đây, con tắc kè khinh khi vị vua cai trị thành Mithilā, xứ Videha.”
10. Bổn sanh Con Tắc Kè
Con tắc kè kia được thưởng cho,
Món tiền nó chẳng có bao giờ,
Nửa hào, nên nó không tôn trọng,
Đại đế Vi-đề Mi-thi-la.
Santhavavaggo dutiyo.
*****
Phẩm Thân Thiết là thứ nhì.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Atha indasamānasapaṇṇakuṭi susimuttamagijjhajalābujakā, upasāḷhakabhikkhu salāpavaro atha mettavaro dasa unnamatī ”ti.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ vị ẩn sĩ Indasamāna, với cái chòi lá, vua Susīma tối thượng, chim kên kên, và kẻ thai sanh, Bà-la-môn Upasāḷha, vị tỳ khưu, chuyện con chim cút, rồi chuyện tâm từ ái, và (con tắc kè) ngước lên, là mười.
–ooOoo–
▪ 3. KALYĀṆADHAMMAVAGGO
▪ 3. PHẨM PHÁP TỐT LÀNH
193. Kalyāṇadhammoti yadā janinda loke samaññā anupāpuṇāti, tasmā na hīyetha naro sapañño hiriyāpi santo dhuramādiyanti.
193. “Tâu quốc vương, khi nào đạt đến ‘pháp tốt lành’ theo sự quy định ở thế gian, người có trí tuệ không nên làm hư hoại điều ấy. Những người tốt nhận lấy trách nhiệm cũng vì sự hổ thẹn.
Thưa Nhân chủ, ở đời,
Ðược danh xưng Thiện pháp,
Người có trí không nên
Ðể thối thất tổn giảm,
Hãy vì sự xấu hổ,
Chấp nhận gánh nặng ấy.
194. Sāyaṃ samaññā idha m’ ajjapattā kalyāṇadhammoti janinda loke, tāhaṃ samekkhaṃ idha pabbajissaṃ na hi m’ atthi chando idha kāmabhoge ”ti.
1. Kalyāṇadhammajātakaṃ.
194. Chính sự quy định ấy, gọi là ‘pháp tốt lành’ ở thế gian, vào ngày hôm nay, ở tại nơi này, tôi đã đạt được, tâu quốc vương. Trong khi xem xét điều ấy, tại nơi này, tôi sẽ xuất gia, bởi vì đối với tôi, sự mong muốn thọ hưởng các dục ở nơi này là không có.”
1. Bổn sanh Pháp Tốt Lành
Thưa Nhân chủ, tên này
Nay được tặng cho tôi,
Ở đời, chính tại đây,
Tôi được tên Thiện pháp,
Thấy vậy, tôi xuất gia,
Tôi không ham dục lạc.
195. Ko nu saddena mahatā abhinādeti daddaraṃ, kiṃ sīhā nappaṭinandanti ko nāmeso migādhibhū.
195. “Ai (đã) rống lên bằng âm thanh to lớn ở núi Daddara? Tại sao các con sư tử không rống đáp lại? Thưa chúa của loài thú, kẻ ấy tên là gì?”
Ai đã rống lớn tiếng,
Vang dội Dad-da-ra,
Vì sao các sư tử
Lại không rống đáp lại?
Con thú rống như vậy
Tên nó gọi là gì?
196. Adhamo migajātānaṃ sigālo tāta vassati, jātimassa jigucchantā tuṇhī sīhā samacchare ”ti.
2. Daddarajātakaṃ.
196. “Này con, là con chó rừng, kẻ hạ tiện trong số các loài thú, (đã) rú lên. Trong khi ghê tởm sanh chủng của kẻ này, các con sư tử ngồi xuống, im lặng.”
2. Bổn sanh Núi Daddara
Chính là con chó rừng
Ðã rống, này con thân,
Con vật bần tiện nhất
Giữa các loại sanh thú,
Ghê tởm hạ sanh nó,
Sư tử ngồi im lặng.
197. Tāta māṇavako eso tālamūlaṃ apassito, agārakañcidaṃ atthi handa demassagārakaṃ.
197. “Thưa cha, người tu khổ hạnh kia nương tựa vào gốc cây thốt nốt. Và (chúng ta) có căn nhà nhỏ này, vậy chúng ta hãy cho kẻ này (ngụ chung) căn nhà nhỏ.”
Có một kẻ khốn cùng
Dựa vào cây cọ dừa,
Ðây ta có chòi lá,
Cho nó vào, cha thân.
198. Mā kho taṃ tāta pakkosi dūseyya no agārakaṃ, netādisaṃ mukhaṃ hoti brāhmaṇassa susīlino ”ti.
3. Makkaṭajātakaṃ.
198. “Này con, chớ có gọi kẻ ấy vào. Gã có thể làm bẩn căn nhà nhỏ của chúng ta. Khuôn mặt như thế này không phải là của vị Bà-la-môn có giới hạnh tốt đẹp.”
3. Bổn sanh Con Khỉ
Con thân, chớ gọi nói,
Nó làm nhớp nhà ta!
Bộ mặt vậy không phải
Hạnh tốt Bà-la-môn.
199. Adamha te vāri pahūtarūpaṃ ghammābhitattassa pipāsitassa, sodāni pitvāna kikiṃ karosi asaṃgamo pāpajanena seyyo.
199. “Ta đã cho nước một cách dư dã đến ngươi, kẻ bị thiêu đốt bởi cơn nóng, đã bị khát nước. Ngươi đây, bây giờ sau khi uống xong, làm trò nhăn mặt khỉ, việc không kết giao với người xấu vẫn là tốt hơn.”
Ta đã cho nhà ngươi
Ðược nhiều nước như vậy,
Ngươi bị nóng bức bách,
Ngươi bị khát hành hạ,
Nhưng nay đã uống xong,
Ngươi ngồi làm trò khỉ,
Tốt nhất, vậy không nên
Liên hệ với kẻ ác.
200. Ko te suto vā diṭṭho vā sīlavā nāma makkaṭo, idāni ko taṃ ūhacca esā asmāka dhammatā ”ti.
4. Dutiyamakkaṭajātakaṃ.
200. “Con khỉ nào đã được ngài nghe hoặc nhìn thấy là có giới hạnh? Giờ đây, thải phân xuống đầu ngài; điều ấy là quy luật tự nhiên của chúng tôi.”
4. Bổn sanh Con Khỉ – Thứ Nhì
Ai từng nghe hoặc thấy
Khỉ nào có giới đức?
Nay thả phân đầu ngươi,
Thói chúng ta là vậy.
201. Sabbesu kira bhūtesu santi sīlasamāhitā, passa sākhā migaṃ jammaṃ ādiccamupatiṭṭhati.
201. “Nghe nói trong số tất cả các chúng sanh, có những người chuyên tâm về giới. Hãy nhìn xem con khỉ hèn hạ này, nó đứng hầu mặt trời.”
Nghe nói mọi chúng sanh
Ðều có giữ giới hạnh,
Hãy xem vượn khốn khổ
Sống ở trên cành này,
Ðang đảnh lễ mặt trời.
202. Nāssa sīlaṃ vijānātha anaññāya pasaṃsatha, aggihuttañca ūhantaṃ dve ca bhinnā kamaṇḍalū ”ti.
5. Ādiccupaṭṭhānajātakaṃ.
202. “Các người không nhận biết giới hạnh của nó, các người không biết rõ nên khen ngợi nó. Bởi nó, việc thờ phượng ngọn đã bị thải phân và hai vò nước đã bị đập bể.”
5. Bổn sanh Đứng Hầu Mặt Trời
Không biết tánh hạnh nó,
Các người cứ ngợi khen,
Nó làm bẩn lửa thiêng,
Ðập vỡ các ghè nước.
203. Bālo vatāyaṃ dumasākhagocaro paññā janinda nayimassa vijjati, kaḷāyamuṭṭhiṃ avakiriya kevalaṃ ekaṃ kaḷāyaṃ patitaṃ gavesati.
203. “Con thú này, sinh sống ở cành cây, quả thật ngu si, tâu quân vương, trí tuệ của loài thú này không có. Sau khi quăng bỏ toàn bộ nắm tay hạt đậu, nó tìm kiếm một hạt đậu đã bị rơi mất.”
Thưa Nhân chủ, vượn này
Ngu si sống trên cành,
Trí tuệ nó không có,
Nó đã quăng tất cả
Nắm đậu nằm trong tay,
Ðể tìm một hột rơi.
204. Evameva mayaṃ rāja ye caññe atilobhino, appena bahu jiyyāma kaḷāyeneva vānaro ”ti.
6. Kaḷāyamuṭṭhijātakaṃ.
204. “Tâu bệ hạ, tương tự y như thế, chúng ta và những người khác là tham lam thái quá, vì chút ít chúng ta bị mất mát nhiều, tựa như là con khỉ với hạt đậu.”
6. Bổn sanh Nắm Tay Hạt Đậu
Chúng ta và người khác
Tham lam cũng như vậy,
Thưa Ðại vương, chúng ta
Mất nhiều để được ít,
Chẳng khác con vượn ấy
Xử sự với hột đậu.
205. Dhanuhatthakalāpehi nettiṃsavaradhāribhi, samantā parikiṇṇamhā kathaṃ mokkho bhavissati.
205. “Chúng ta bị bao vây xung quanh bởi những người có cung ở tay và các bó tên, mang theo gươm quý, sự giải thoát sẽ có (cho chúng ta) bằng cách nào?”
Tay cầm cung, ống tên,
Mang các loài gươm tốt,
Chúng bao vây chúng tôi,
Làm sao được giải thoát?
206. Appeva bahukiccānaṃ attho jāyetha koci naṃ, atthi rukkhassa acchinnaṃ khajjataññeva tindukan ”ti.
7. Tindukajātakaṃ.
206. “Biết đâu sẽ có sự việc xảy ra cho những người có nhiều công việc, một ai đó sẽ tạo ra điều ấy. Đã có sự hái trộm trái cây, hãy ăn trái cây tinduka ấy.”
7. Bổn sanh Cây Tinduka.
Loài người có nhiều việc,
Sẽ giải tán đám đông,
Những gì cây còn lại,
Hãy ăn Tin-du-ka.
207. Janittamme bhavittamme iti paṅke avassayiṃ, taṃ maṃ paṅko ajjhabhavi yathā dubbalakaṃ tathā, taṃ taṃ vadāmi bhaggava suṇohi vacanaṃ mama.
207. “‘Nơi ta sanh ra, nơi ta lớn lên,’ ta đã sống nương vào bãi bùn như thế. Bãi bùn đã khống chế ta đây như là khống chế một kẻ yếu đuối. Này người làm gốm, tôi nói điều ấy với ông. Xin ông hãy lắng nghe lời nói của tôi.
Tại đây, ta sanh ra,
Trong bùn này ta sống,Bùn ấy hủy diệt ta
Ta yếu đuối thế này,
Thế Tôn, con van Ngài,Hãy nghe tiếng con thưa.
208. Gāme vā yadi vā raññe sukhaṃ yatrādhigacchati, taṃ janittaṃ bhavittañca purisassa pajānato, yamhi jīve tamhi gacche na niketahato siyā ”ti.
8. Kacchapajātakaṃ.
208. Nơi nào đạt đến sự an lạc, dầu ở làng hay ở rừng, nơi ấy là nơi sanh ra và là nơi lớn lên của người có sự nhận thức. Nơi nào có thể sống thì nên đi đến nơi ấy, không nên bị vong mạng vì nơi cư ngụ.”
8. Bổn sanh Con Rùa
Ở làng hay tại rừng,
Chỗ nào được an lạc,
Với người có trí thức,
Là chỗ sanh, chỗ lớn.
Chỗ nào có sự sống,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Tốt hơn chỗ trú ẩn
Ðem lại sự hủy diệt.
209. Tañca appañca ucchiṭṭhaṃ tañca kicchena no adā, sohaṃ brāhmaṇajātiko maṃ bhuttaṃ tampi uggataṃ.
209. “Vật ấy là ít ỏi và còn thừa lại, và nó đã cho vật ấy một cách khó khăn. Ta đây là dòng dõi Bà-la-môn, vật nào đã được ăn vào, vật ấy cũng đã bị trào ra.”
Nhỏ thay, dư tàn ấy,
Nó cho rất khó khăn!
Ta sanh là Phạm chí,
Món ăn, bị nôn ra.
210. Evaṃ dhammaṃ niraṃ katvā yo adhammena jīvati, satadhammova lābhena laddhenapi na nandatī ”ti.
9. Satadhammajātakaṃ.
210. “Sau khi đã bất chấp Giáo Pháp như vậy, kẻ nào sống theo phi pháp, tựa như Satadhamma, cũng không vui thích với lợi lộc đã nhận được.”
9. Bổn sanh Bà-la-môn Satadhamma
Ai hủy hoại chánh pháp,
Sinh sống theo phi pháp,
Như Sa-ta-dham-ma,
Sống không được hoan hỷ.
211. Duddadaṃ dadamānānaṃ dukkaraṃ kammakubbataṃ, asanto nānukubbanti sataṃ dhammo durannayo.
211. “Trong khi họ cho vật khó cho, trong khi họ làm công việc khó làm, những kẻ xấu không làm theo được; pháp của những người tốt là khó đạt đến.
Cho những gì khó cho,
Làm những việc khó làm,
Kẻ xấu khó làm được,
Pháp kẻ thiện khó theo.
212. Tasmā satañca asatañca nānā hoti ito gati, asanto nirayaṃ yanti santo saggaparāyaṇā ”ti.
10. Duddadajātakaṃ.
212. Vì thế, cảnh giới tái sanh sau kiếp này dành cho những người tốt và những kẻ không tốt là khác nhau, những kẻ không tốt đi địa ngục, những người tốt có sự đi đến cõi trời.”
10. Bổn sanh Vật Khó Cho
Do vậy kẻ thiện, ác,
Từ đây đi khác nhau.
Kẻ ác xuống địa ngục,
Bậc thiện lên Thiên giới.
Kalyāṇadhammavaggo tatiyo.
*****
Phẩm Pháp Tốt Lành là thứ ba.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Susamaññamigādhibhū māṇavako vāripahūtarūpādiccupaṭṭhānā, sakaḷāyasatindukapaṅka puna satadhamma sududdadakena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Sự khéo quy định, chúa của loài thú, người thanh niên Bà-la-môn, (cho) nước một cách dư dã, việc đứng hầu mặt trời, với hạt đậu, với trái cây Tinduka, thêm vào bãi bùn,
Bà-la-môn Satadhamma, với vật dễ và khó cho, là mười.
–ooOoo–
▪ 4. ASADISAVAGGO
▪ 4. PHẨM KHÔNG THỂ SÁNH BẰNG
213. Dhanuggaho asadiso rājaputto mahabbalo, dūrepātī akkhaṇavedhī mahākāyappadālano.
213. “Vị hoàng tử có năng lực vĩ đại, là bậc cung thủ không thể sánh bằng, có tầm bắn xa, có tài bắn không trượt mục tiêu, với sự phá tan đạo binh lớn.
Vị thiện xạ, hoàng tử,
Tên A-sa-di-sa,
Bậc đại hùng vô địch,
Bắn xa, nhanh như chớp,
Ðã phá vỡ tan tành
Ðại bộ phận quân địch.
214. Sabbāmitte raṇaṃ katvā na ca kiñci viheṭhayi, bhātaraṃ sotthiṃ katvāna saññamaṃ ajjhupāgamī ”ti.
1. Asadisajātakaṃ.
214. Sau khi lâm trận với tất cả các kẻ thù, vị hoàng tử đã không giết hại bất cứ ai. Sau khi tạo sự an ổn cho người em trai, ngài đã đạt đến sự chế ngự.”
1. Bổn sanh Không Thể Sánh Bằng
Giao chiến giữa quân thù,
Nhưng không hại một ai,
Cứu người em an toàn,
Bồ-tát tự chế ngự.
215. Saṅgāmāvacaro sūro balavā iti vissuto, kinnu toraṇamāsajja paṭikkamasi kuñjara.
215. “Này voi, là dũng sĩ có sự quen thuộc với chiến trận, được biết tiếng là ‘có sức mạnh,’ vì sao ngươi quay trở lại sau khi đã tiến đến cổng thành?
Anh hùng quen chiến trận,
Voi được tiếng lẫy lừng,
Tấn công các cửa thành,
Sao voi lại lùi bước?
216. Omadda khippaṃ paḷighaṃ esikāni ca abbaha, toraṇāni pamadditvā khippaṃ pavisa kuñjarā ”ti.
2. Saṅgāmāvacarajātakaṃ.
216. Ngươi hãy mau chóng đạp đổ thanh chắn, và hãy nhổ lên các trụ chống. Này voi, sau khi chà đạp các cổng thành, ngươi hãy cấp tốc tiến vào.”
2. Bổn sanh Quen Thuộc Chiến Trận.
Phá mau thanh cửa sắt,
Nhổ lên các cột trụ,
Ðạp nát các cửa thành,
Hỡi voi, mau vào thành!
217. Vāḷodakaṃ apparasaṃ nihīnaṃ pītvā mado jāyati gadrabhānaṃ, imañca pītvāna rasaṃ paṇītaṃ mado na sañjāyati sindhavānaṃ.
217. “Nước đã được chắt lọc, ít chất tinh túy, tầm thường,sau khi uống vào, cơn say sanh lên ở những con lừa. Và sau khi uống vào chất tinh túy, hảo hạng này, cơn say không sanh khởi ở những con ngựa giống Sindhu.
Nước tồi tệ, ít vị,
Chất tươi bị vắt sạch.
Uống vào lừa say sưa,
Thưa Nhân chủ, ngài hỏi,
Ngựa Sindh, loài thuần chủng,
Uống loại nước thượng vị,
Ðứng yên lặng tại chỗ,
Không chạy nhảy say sưa.
218. Appaṃ pivītvāna nihīnajacco so majjati tena janinda phuṭṭho, dhorayhasīlo ca kulamhi jāto na majjati8 aggarasaṃ pivitvā ”ti.
3. Vāḷodakajātakaṃ.
218. Hạng người tầm thường, sau khi uống vào chút ít, kẻ ấy bị say sưa, khi tiếp xúc với chất ấy, tâu quân vương. Còn người có bản tánh chịu đựng, được sanh ra ở gia đình danh giá, sau khi uống vào chất tinh túy cao sang, không bị say sưa.”
3. Bổn sanh Nước Đã Được Chắt Lọc
Cũng vậy, người hạ đẳng,
Dù ăn món dư tàn,
Vẫn say sưa nhảy nhót,
Sống thoải mái an nhàn.
Còn hạng người thuần tánh,
Giữ tâm trí vững vàng,
Cho dù được uống cạn,
Rượu thượng vị cao sang.
219. Dūsito giridattena hayo sāmassa paṇḍavo, porāṇaṃ pakatiṃ hitvā tasseva anuviṭhīyati.
219. “Con ngựa dòng Paṇḍava của vua Sāma bị hư hỏng bởi gã (mã phu) Giridatta. Sau khi từ bỏ tập quán trước đây, nó bắt chước theo gã ấy.
Con ngựa Pan-da-va,
Của Ðại vương Sà-ma,
Bị tật nguyền tai hại,
Vì Ga-ri-dan-ta,
Nó bỏ bản tánh xưa,
Học theo người huấn luyện.
220. Sace va tanujo poso sikharākārakappito, ānane taṃ gahetvāna maṇḍale parivattaye, khippameva pahatvāna tasseva anuvidhīyatī ”ti.
4. Giridattajātakaṃ.
220. Quả thật, nếu có người trẻ tuổi hơn kẻ ấy, được sửa soạn bên ngoài tốt đẹp, sau khi nắm lấy con ngựa ở mõm, nên cho nó chạy quanh ở vòng đua. Sau khi dứt bỏ thật mau chóng (tật xấu cũ), con ngựa bắt chước theo gã (mã phu mới) ấy.”
4. Bổn sanh Mã Phu Giridatta
Tìm người đáng tin cậy,
Có phong cách tốt lành,
Thắng dây cương vào ngựa,
Tập nó chạy vòng tròn,
Nó mau bỏ tật cũ,
Học theo người huấn luyện.
221. Yathodake āvile appasanne na passati sippisambukaṃ macchagumbaṃ, evaṃ āvile hi citte na passati attadatthaṃ paratthaṃ.
221. “Giống như khi nước bị vẩn đục, không trong trẻo, thì không nhìn thấy sò, hến, đàn cá, tương tự như thế, khi tâm bị vẩn đục, thì không nhìn thấy lợi ích của bản thân, lợi ích của người khác.
Như nước đục, vấy bùn,
Không thấy sò, hến, cá.
Sạn, cát nằm phía dưới,
Cũng vậy, tâm vẩn đục
Không thấy được lợi mình,
Không thấy được lợi người.
222. Yathodake acche vippasanne so passati sippisambukaṃ macchagumbaṃ, evaṃ anāvile hi citte so passati attadatthaṃ paratthan ”ti.
5. Anabhiratijātakaṃ.
222. Giống như khi nước được tinh khiết, trong trẻo, người ấy nhìn thấy sò, hến, đàn cá, tương tự như thế, khi tâm không bị vẩn đục, người ấy nhìn thấy lợi ích của bản thân, lợi ích của người khác.
”5. Bổn sanh Không Hứng Thú
Như nước lặng trong suốt,
Thấy sò, cá nằm dưới,
Cũng vậy, tâm thanh thản
Thấy lợi mình, lợi người.
223. Vaṇṇagandharasūpeto ambāyaṃ ahuvā pure, tameva pūjaṃ labhamāno kenambo kaṭukapphalo.
223. “Cây xoài này trước đây đã có được sắc, hương, và vị. Trong khi đạt được chính sự chăm sóc ấy, vì điều gì khiến cây xoài có trái đắng?”
Ðẹp, thơm và vị ngọt,
Trái xoài xưa là vậy,
Vẫn được ta tôn quý,
Sao lại có vị đắng?
224. Pucimandaparivāro ambo te dadhivāhana, mūlaṃ mūlena saṃsaṭṭhaṃ sākhā sākhā nisevare, asataṃ sannivāsena tenambo kaṭaṭukapphalo ”ti.
6. Dadhivāhanajātakaṃ.
224. “Tâu Dadhivāhana, cây xoài của bệ hạ bị bao trùm bởi giống cây pucimanda, rễ bị xen lẫn với rễ, cành với cành đan vào nhau. Do việc cư ngụ chung với kẻ xấu, vì điều ấy khiến cây xoài có trái đắng.”
6. Bổn sanh Vua Dadhivāhana
Da-dhi-va-ha-na,
Trái xoài chín của ngài,
Bị vây bởi nim-ba,
Rễ xen lẫn với rễ,
Cành xen lẫn với cành,
Chính cây đắng bao quanh
Ðã làm hư trái ngọt,
Do sống với bạn ác,
Trái ngọt trở thành đắng.
225. Ucce viṭapamāruyha mantayavho rahogatā, nīce oruyha mantavho migarājāpi sossati.
225. “Sau khi leo lên chạc cây ở nơi cao, các vị đàm luận rồi đi về nơi thanh vắng. Các vị hãy leo xuống chỗ thấp rồi đàm luận, vua của loài thú cũng sẽ lắng nghe.”
Leo nhánh cây chỗ cao,
Một mình, ngồi ca hót,
Hãy xuống đây ngâm kệ,
Cho vua loài thú nghe!
226. Yaṃ supaṇṇo supaṇṇena devo devena mantaye, kiṃ tettha catumaṭṭassa bilaṃ pavisa jambukā ”ti.
7. Catumaṭṭhajātakaṃ.
226. “Loài có cánh đẹp đàm luận với loài có cánh đẹp, thiên thần đàm luận với thiên thần, ngươi có được điều gì trong số bốn điều làm say đắm[1]? Này chó rừng, ngươi hãy đi vào hang.”
7. Bổn sanh Bốn Điều Làm Say Đắm
[1] Bốn điều làm say đắm: vóc dáng, chủng loại, âm giọng, và đức tính (JāA ii, 108)
Cánh đẹp cùng cánh đẹp,
Chư Thiên cùng chư Thiên,
Có đủ bốn vẻ đẹp,
Sao chó lại ở đây?
Hỡi con chó rừng kia,
Hãy về hang của chó!
227. Sīhaṅgulī sīhanakho sīhapādapatiṭṭhito, so sīho sīhasaṅghamhi eko nadati aññathā.
227. “Có ngón chân sư tử, có móng chân sư tử, đứng lên với các bàn chân sư tử, nó là con sư tử trong bầy sư tử, một mình nó gầm rú một cách khác.”
Ngón chân và móng chân
Là ngón, móng sư tử,
Nó có chân sư tử,
Ðể đứng dựa lên trên,
Nhưng giữa chúng sư tử,
Tiếng kêu nó lại khác.
228. Mā tvaṃ nadi rājaputta appasaddo vane vasa, sarena kho taṃ jāneyyuṃ na hi te pettiko saro ”ti.
8. Sīhakotthukajātakaṃ.
228. “Này con trai của chúa rừng, con chớ gầm rú. Con hãy sống ở rừng, ít phát âm. Chúng có thể nhận biết con nhờ vào âm giọng, bởi vì giọng của con không phải là giọng của cha.”
8. Bổn sanh Chó Rừng Lai Sư Tử
Này con thân, chớ hú,
Sống im lặng trong rừng,
Với tiếng, chúng biết con,
Tiếng con không giống bố!
229. Netaṃ sīhassa naditaṃ na vyagghassa na dīpino, pāruto sīhacammena jammo nadati gadrabho.
229. “Tiếng kêu này không phải là của con sư tử, không phải của con cọp, không phải của con báo. Được trùm lên với tấm da sư tử, con lừa hạ tiện kêu lên (tiếng hí của con lừa).
Tiếng hí này không phải
Tiếng sư tử, hay cọp,
Cũng không phải tiếng beo.
Con vật ty tiện này,
Dù trùm da sư tử,
Cũng chỉ hí tiếng ngựa!
230. Cirampi kho taṃ khādeyya gadrabho haritaṃ yavaṃ, pāruto sīhacammena ravamānova dūsayī ”ti.
9. Sīhacammajātakaṃ.
230. Cũng đã thời gian dài, con lừa có thể nhai ăn rau xanh, lúa mạch. Được trùm lên với tấm da sư tử, ngay khi đang hí lên, nó đã làm hại nó.”
9. Bổn sanh Tấm Da Sư Tử
Ðã lâu, lừa khôn khéo,
Ăn lúa gạo, lúa mì,
Da sư tử trùm lên,
Do tiếng kêu, bị đánh!
231. Passa saddhāya sīlassa cāgassa ca ayaṃ phalaṃ, nāgo nāvāya vaṇṇena saddhaṃ vahati upāsakaṃ.
231. “Hãy nhìn quả báu này của đức tin, của giới, và của sự xả thí: con rồng với hình dáng của chiếc thuyền chở người cận sự nam có đức tin.
Hãy nhìn kết quả này
Của tín, giới, và thí,
Biến hình thành chiếc thuyền,
Con rắn chở thiện nam.
232. Sabbhireva samāsetha sabbhi kubbetha santhavaṃ, sataṃ hi sannivāsena sotthiṃ gacchati nahāpito ”ti.
10. Sīlānisaṃsajātakaṃ.
232. Nên cộng sự với những người tốt, nên tạo sự thân thiết với những người tốt, bởi vì nhờ vào việc cư ngụ chung với những người tốt, gã thợ cạo đi đến sự an ổn.”
10. Bổn sanh Lợi Ích Của Giới
Hãy thân cận bậc lành,
Hãy giao du kẻ tốt;
Chung sống với bậc thiện,
Người hớt tóc an toàn.
Asadisavaggo catuttho.
*****
Phẩm Không Thể Sánh Bằng là thứ tư.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Dhanuggahakuñjaraapparaso giridattamanāvilacittavaraṃ, dadhivāhanajambukasīhanakho haritayavanāgavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Bậc cung thủ, con voi, ít chất tinh túy, mã phu Giridatta, chuyện tâm không bị vẩn đục, vua Dadhivāhana, con chó rừng, móng chân sư tử, rau xanh, lúa mạch, với chuyện con rồng, là mười.
–ooOoo–
▪ 5. RUHAKAVAGGO
▪ 5. PHẨM QUAN TẾ TỰ RUHAKA
233. Ambho ruhaka chinnāpi jiyā sandhīyate puna, sandhīyassu purāṇiyā mā kodhassa vasaṃ gami.
233. “Này khanh Ruhaka, dây cung mặc dầu bị đứt cũng nối lại được. Khanh hãy hàn gắn với người vợ cũ, chớ rơi vào quyền lực của sự giận dữ.”
Dây cung dù bị đứt,
Cũng có thể nối liền,
Hãy giảng hòa với vợ,
Chớ để tâm hận hiềm.
234. Vijjamānāsu maruvāsu vijjamānesu kārusu, aññaṃ jiyaṃ karissāma alaññeva purāṇiyā ”ti.
1. Ruhakajātakaṃ.
234. “Khi những sợi gai còn được tìm thấy, khi những người thợ còn được tìm thấy, thần sẽ làm dây cung khác; quá đủ rồi với người vợ cũ!”
1. Bổn sanh Quan Tế Tự Ruhaka
Có vỏ, làm dây khác,
Lại có thợ biết làm.
Tôi sẽ tìm vợ mới,
Vợ cũ, tôi chán nhàm!
235. Itthī siyā rūpavatī sā ca sīlavatī siyā, puriso taṃ na iccheyya saddahāsi mahosadha.
235. “Giả sử một người nữ có sắc đẹp, và nàng ấy có đức hạnh, người nam lại không ước muốn nàng ấy, này Mahosadha, khanh có tin không?”
Một nữ nhi đức hạnh, diễm kiều,
Nhưng nam nhân ấy chẳng thương yêu,
Hiền khanh có thể tin không chứ?
Trí giả Sa-dha hãy nói nào.(GS. Phương Lan)
236. Saddahāmi mahārāja puriso dubbhago siyā, sirī ca kālakaṇṇī ca na samenti kudācanan ”ti.
2. Sirikālakaṇṇijātakaṃ.
236. “Tâu đại vương, thần tin (điều ấy) nếu người nam có phần phước kém. Người may mắn và kẻ bất hạnh không bao giờ kết hợp với nhau.”
2. Bổn sanh May Mắn và Bất Hạnh
Thần vẫn tin điều ấy, Đại vương,
Kẻ kia thật bất hạnh bần cùng,
Người nhiều ân phước và vô phước,
Chẳng có bao giờ kết bạn chung.(GS. Phương Lan)
237. Ayameva sā ahampi so anañño ayameva so hatthacchinno anañño, yamāha komārapatī mamanti vajjhitthiyo natthi itthīsu saccaṃ.
237. “Người này chính là nàng ấy, còn trẫm là người ấy, không là người khác. Người này chính là gã ấy, (kẻ cướp) bị chặt tay, không là người khác, là người mà nàng đã nói rằng: ‘Người chồng lúc trẻ của thiếp.’ Các người nữ đáng bị xử chết, không có sự chân thật ở các người nữ.
Nàng chính là người ấy,
Còn ta không ai khác,
Người què chính là nó,
Bị chặt tay, chính nó.
Tuy vậy nàng vẫn nói:
– Là chồng tôi lúc trẻ.
Ðàn bà thật đáng chết,
Chúng không có sự thật!
238. Imañca jammaṃ musalena hantvā luddaṃ chavaṃ paradārūpaseviṃ, imissā ca naṃ pāpapatibbatāya jīvantiyā chindatha kaṇṇanāsan ”ti.
3. Cullapadumajātakaṃ.
238. Các khanh hãy dùng cái chày giết chết gã này, là kẻ đê tiện, dữ tợn, hèn kém, có sự ve vãn vợ người khác, và các khanh hãy xẻo đứt tai và mũi của người vợ trung thành độc ác này trong khi ả còn sống.”
3. Bổn sanh Vua Cullapaduma
Hãy lấy một cái chày.
Ðánh chết tên khốn nạn,
Kẻ độc ác rình rập
Ðể cướp lấp vợ người.
Sau đó bắt người vợ
Ác độc, tà hạnh này,
Chấm dứt mạng sống nó,
Cắt cả mũi lẫn tai!
239. Na santi devā pavasanti nūna naha nūna santi idha lokapālā, sahasā karontānaṃ asaññatānaṃ. naha nūna santi paṭisedhitāro.
239. “Có lẽ chư Thiên không có mặt, có lẽ các ngài ngự nơi xa, có lẽ các vị hộ trì thế gian cũng không có ở chốn này! Đối với những kẻ đang hành động hung bạo, không tự kìm chế, có lẽ những người ngăn cản chúng cũng không có!”
Không có Thiên thần nào,
Chắc các ngài đi vắng,
Có lẽ không một ai.
Bảo vệ cõi đời này
Kẻ bạo ngược hung hãn
Muốn làm gì thì làm,
Có lẽ không một ai
Chận đứng được bọn chúng!
240. Akāle vassatī tassa kāle tassa na vassati, saggā ca cavatiṭṭhānā nanu so tāvatā hato ”ti.
4. Maṇicorajātakaṃ.
240. “Đối với gã (vua độc ác) ấy, mưa rơi không đúng thời; đối với gã (vua độc ác) ấy, đúng thời không có mưa. Gã (vua độc ác) ấy từ địa vị cõi trời đọa xuống, đương nhiên gã (vua độc ác) ấy đã đến lúc bị giết chết.”
4. Bổn sanh Kẻ Cướp Ngọc Ma-ni
Với nó, mưa phi thời,
Ðúng thời, trời không mưa,
Từ trời, vua xuống đất,
Hãy nhìn rõ nguyên nhân
Kẻ này đã bị giết.
241. Pabbatūpatthare ramme jātā pokkharaṇī sivā, taṃ sigālo apāpāyi jānaṃ sīhena rakkhitaṃ.
241. “Tại khu vực xinh xắn ở chân núi, có một hồ nước bình yên được hình thành. Con chó rừng đã uống nước hồ ấy, trong khi biết rằng hồ được bảo vệ bởi con sư tử.”
Trải dài hòn núi đẹp,
Có hồ nước trong xanh,
Biết sư tử bảo vệ,
Chó rừng uống nước lành.
242. Pivanti ve mahārāja sāpadāni mahānadiṃ, na tena anadī hoti khamassu yadi te piyā ”ti.
5. Pabbatūpattharajātakaṃ.
242. “Tâu đại vương, các loài thú có chân đương nhiên uống nước ở sông lớn, không vì điều ấy mà không còn là sông nữa. Xin đại vương tha thứ, nếu nàng là đáng yêu đối với ngài.”
5. Bổn sanh Khu Vực Ở Chân Núi
Tất cả loài có chân,
Ðều uống nước sông lớn.
Sông vẫn là con sông,
Nếu quý, hãy kham nhẫn.
243. Ye na kāhanti ovādaṃ narā buddhena desitaṃ, vyasanaṃ te gamissanti rakkhasīhiva vāṇijā.
243. “Những người nào không làm theo lời giáo huấn đã được đức Phật thuyết giảng, những kẻ ấy sẽ đi đến bất hạnh, ví như các thương buôn (bị quyến rũ) bởi các nữ quỷ.
Những ai không làm theo
Lời dạy của đức Phật,
Họ sẽ gặp tai nạn,
Họ giống các lái buôn
Bị các nữ Dạ-xoa
Ăn thịt và mạng chung.
244. Ye ca kāhanti ovādaṃ narā buddhena desitaṃ, sotthiṃ pāraṃ gamissanti valāheneva vāṇijā ”ti.
6. Valāhassajātakaṃ.
244. Còn những người nào làm theo lời giáo huấn đã được đức Phật thuyết giảng, những người ấy sẽ đi đến bờ kia an toàn, ví như các thương buôn (được mang đi) bởi con ngựa bay.”
6. Bổn sanh Con Ngựa Bay
Còn những ai làm theo
Lời dạy của đức Phật,
Họ sẽ được an toàn,
Họ giống các lái buôn
Ðược ngựa bay cứu giúp,
Ðưa về tận trú xứ.
245. Na naṃ umhayate disvā na ca naṃ paṭinandati, cakkhūni cassa na dadāti paṭilomañca vattati.
245. “Sau khi gặp, không cười với người ấy, không tỏ vẻ vui mừng với người ấy, không đưa cặp mắt nhìn người ấy, và tiến hành điều ngược lại.
Khi thấy, nó không cười,
Không hoan hỷ tiếp đón,
Không đưa cặp mắt nhìn,
Và làm điều trái nghịch.
246. Ete bhavanti ākārā amittasmiṃ patiṭṭhitā, yehi amittaṃ jāneyya disvā sutvā ca paṇḍito ”ti.
7. Mittāmittajātakaṃ.
246. Những biểu hiện này là được thiết lập ở kẻ thù. Nhờ vào những điều ấy, sau khi thấy và nghe, bậc sáng suốt có thể biết được kẻ thù.”
7. Bổn sanh Bạn và Thù
Với những hình tướng này,
Biết nó không phải bạn,
Bậc trí thấy nghe vậy,
Biết nó là kẻ thù.
247. Pavāsā āgato tāta idāni na cirāgato, kaccinnu tāta te mātā na aññamupasevati.
247. “Này con, cha đã đi về từ nơi xứ lạ, Giờ đây, cha vừa mới đi về không lâu. Này con, có phải mẹ của con không gần gũi với người đàn ông khác?”
Này con, ta đi xa,
Nay ta mới về nhà,
Mẹ con như thế nào,
Có theo người khác không?
248. Na kho panetaṃ subhaṇaṃ giraṃ saccupasaṃhitaṃ, sayetha poṭṭhapādova mummure upakūsito ”ti.
8. Rādhajātakaṃ.
248. “Vả lại, trong khi không khéo nói điều này, dầu là lời nói liên quan đến sự thật, tựa như con vẹt Poṭṭhapāda, nằm dài ở lò than, bị đốt cháy.”
8. Bổn sanh Con Vẹt Rādha
Ðây không phải khéo nói,
Dù nói đúng sự thật,
Như Pot-tha-pà-da
Nay đã phải nằm chết
Bị cháy dưới than hồng,
Con sợ chung số phận.
249. Ubhayaṃ me na khamati ubhayaṃ me na ruccati, yā cāyaṃ koṭṭhamotiṇṇā na dassaṃ iti bhāsati.
249. “Ta không tha thứ cho hai người, ta không ưa thích hai người. Nàng này đã đi xuống vựa lúa, nói rằng: ‘Thiếp không thấy (còn lúa).’
Cả hai, ta không nhẫn,
Cả hai, ta không ưa.
Nữ nhân này leo lên
Ðứng một bên vựa lúa,
Lại nói lớn lên rằng:
Tôi không thể trả được!
250. Taṃ taṃ gāmapati brūmi kadare appasmiṃ jīvite, dve māse kāraṃ katvāna maṃsaṃ jaraggagavaṃ kisaṃ, appattakāle codesi tampi mayhaṃ na ruccatī ”ti.
9. Gahapatijātakaṃ.
250. Này trưởng làng, về việc ấy ta nói với ngươi rằng: ‘Khi cuộc sống khổ cực, khan hiếm, sau khi thỏa thuận hai tháng về con bò già gầy ốm là thịt để ăn, giờ ngươi đòi nợ lúc thời điểm chưa đến, ta cũng không ưa thích điều ấy.”
9. Bổn sanh Chủ Nhà
Nghe đây, ông thôn trưởng,
Ta sống cực khổ thay,
Mượn con bò già, gầy,
Sau hai tháng mới trả,
Thời chưa đến, đòi nợ,
Ta không thích chuyện đó!
251. Sarīradavyaṃ vaddhavyaṃ sojaccaṃ sādhusīliyaṃ, brāhmaṇantveva pucchāma kaṃ nu tesaṃ vaṇimhase.
251. “Người thành tựu về vóc dáng, người lớn tuổi chững chạc, người dòng dõi cao sang, người giới hạnh tốt lành, chúng tôi hỏi vị Bà-la-môn về những người ấy, chúng tôi nên chọn người nào trong số những người ấy?”
Một người trẻ đẹp trai,
Một người tuổi lại lớn,
Một người sanh quý phái,
Một người có giới hạnh,
Tôi hỏi bậc Sư trưởng,
Chúng tôi nên chọn ai?
252. Attho atthi sarīrasmiṃ vaddhavyassa namo kare, attho atthi sujātasmiṃ sīlaṃ asmāka ruccatī ”ti.
10. Sādhusīlajātakaṃ.
252. “Có lợi ích ở vóc dáng, đối với người lớn tuổi thì nên kính lễ, có lợi ích ở dòng dõi cao sang, còn chúng tôi ưa thích giới hạnh.”
10. Bổn sanh Giới Hạnh Tốt Lành
Thật tốt, người đẹp xinh,
Người lớn tuổi nên trọng,
Cũng tốt, người thiện sanh,
Nhưng ta thích đức hạnh.
Ruhakavaggo pañcamo.
*****
Phẩm Quan Tế Tự Ruhaka là thứ năm.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Ambhoruhakarūpavatīmusalo pavasanti sapañcamapokkharaṇī, atha muttimavāṇija umhayate ciraāgata koṭṭha sarīra dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Này khanh Ruhaka, người nữ có sắc đẹp, và cái chày, các ngài ngự nơi xa, với hồ nước là thứ năm, rồi các thương buôn được cứu thoát, cười ra tiếng,
vừa mới đi về không lâu, vựa lúa, và vóc dáng, là mười.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda