Tiểu Bộ – Bổn Sanh I: Nhóm Một Kệ Ngôn, Phẩm 1 – 5
MAIN CONTENT
- Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm một kệ ngôn
- 1. Apaṇṇakajātakaṃ – Bổn sanh Không Lỗi Lầm.
- 2. Vaṇṇupathajātakaṃ – Bổn sanh Bãi Cát
- 3. Serivāvāṇijajātakaṃ – Bổn sanh Thương Buôn Serivā.
- 4. Cullaseṭṭhijātakaṃ – Bổn sanh Tiểu Triệu Phú.
- 5. Taṇḍulanāḷijātakaṃ – Bổn sanh Đấu Gạo.
- 6. Devadhammajātakaṃ – Bổn sanh Thiên Pháp
- 7. Kaṭṭhahārijātakaṃ – Bổn sanh Cô Gái Nhặt Củi
- 9. Makhādevajātakaṃ – Bổn sanh Makhādeva
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 2. SĪLAVAGGO – Phẩm Giới
- 6. Tipallatthamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Tipallattha
- 8. Matakabhattajātakaṃ – Bổn sanh Thực Phẩm Cúng Vong
- 9. Āyācitabhattajātakaṃ – Bổn sanh Vật Thực Cầu Khấn
- 10. Naḷapānajātakaṃ – Bổn sanh Uống Nước Bằng Ống Sậy
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 3. Phẩm Sơn Dương
- 1. Kuruṅgamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Sơn Dương.
- 2. Kukkurajātakaṃ – Bổn sanh Các Con Chó.
- 3. Bhojājānīyajātakaṃ – Bổn sanh Con Ngựa Thuần Chủng.
- 4. Ājaññajātakaṃ – Bổn sanh Con Ngựa Nòi.
- 5. Titthajātakaṃ – Bổn sanh Bến Tắm.
- 6. Mahilāmukhajātakaṃ – Bổn sanh Voi Mahilāmukha.
- 7. Abhiṇhajātakaṃ – Bổn sanh (Gặp Gỡ) Thường Xuyên.
- 8. Nandivisālajātakaṃ – Bổn sanh Nandivisāla.
- 9. Kaṇhajātakaṃ – Bổn sanh Con Bò Đen.
- 10. Munikajātakaṃ – Bổn sanh Con Heo Munika.
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 4. Phẩm Tố Chim Con
- 1. Kulāvakajātakaṃ – Bổn sanh Tổ Chim Con.
- 2. Naccajātakaṃ – Bổn sanh Nhảy Múa.
- 3. Sammodamānajātakaṃ – Bổn sanh Trong Lúc Thân Thiện.
- 4. Macchajātakaṃ – Bổn sanh Con Cá.
- 5. Vaṭṭakajātakaṃ – Bổn sanh Chim Cút Con.
- 6. Sakuṇajātakaṃ – Bổn sanh Các Con Chim.
- 7. Tittirajātakaṃ – Bổn sanh Chim Đa Đa.
- 8. Bakajātakaṃ – Bổn sanh Con Cò
- 9. Nandajātakaṃ – Bổn sanh Nanda
- 10. Khadiraṅgārajātakaṃ – Bổn sanh Than Hừng Cây Khadira.
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
- ▪ 5. Phẩm Mong Mỏi Sự Tấn Hoá
- 1. Losakajātakaṃ – 10. Bổn sanh Losaka.
- 2. Kapotakajātakaṃ – Bổn sanh Chim Bồ Câu.
- 3. Veḷukajātakaṃ – Bổn sanh Veḷuka.
- 4. Makasajātakaṃ – Bổn sanh Con Muỗi.
- 5. Rohiṇījātakaṃ – Bổn sanh Rohiṇī.
- 6. Ārāmadūsakajātakaṃ – Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Khu Vườn.
- 7. Vāruṇidūsakajātakaṃ – Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Rượu.
- 10. Dummedhajātakaṃ – Bổn sanh Những Kẻ Ngu Muội.
- TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Tiểu Bộ: Bổn Sanh I – Nhóm một kệ ngôn
▪ 1. APAṆṆAKAVAGGO – Phẩm Không Lỗi Lầm
1. Apaṇṇakajātakaṃ – Bổn sanh Không Lỗi Lầm.
1. Apaṇṇakaṃ ṭhānameke dutiyaṃ āhu takkikā, etadaññāya medhāvī taṃ gaṇhe yadapaṇṇakan ”ti.
1. Một số người đã nói về sự việc không lỗi lầm, những kẻ ngụy biện đã nói cách khác.
Sau khi đã hiểu được điều này, người thông minh nên nắm lấy điều không lỗi lầm.
Có những người nói lên
Sự thật vô hý luận,
Nhưng các hạng người khác
Tuyên bố về tà luận.
Kẻ trí biết điều này,
Giữ chặt pháp tối thượng.
2. Vaṇṇupathajātakaṃ – Bổn sanh Bãi Cát
2. Akilāsuno vaṇṇupathe khaṇantā udaṅgaṇe tattha papaṃ avinduṃ, evaṃ munī viriyabalūpapanno akilāsu vinde hadayassa santin ”ti.
2. Trong khi đào ở bãi cát, những người không biếng nhác đã tìm được nước uống tại nơi ấy trong sa mạc, tương tự như vậy bậc hiền trí, có được sự tinh tấn và sức lực, không biếng nhác, có thể tìm thấy sự an tịnh của tâm.
Không mệt mỏi, họ đào,
Họ đào con đường cát
Ðến khi có dòng nước
Tại đấy, họ được nước!
Cũng vậy, bậc ẩn sĩ
Với sức mạnh tinh tấn,
Không thối chí mệt mỏi,
Tìm được tâm an tịnh.
3. Serivāvāṇijajātakaṃ – Bổn sanh Thương Buôn Serivā.
3. Idha ce hi naṃ virādhesi saddhammassa niyāmataṃ, ciraṃ tvaṃ anutapessasi serivāyaṃva vāṇijo ”ti.
3. Ở đây (trong Giáo Pháp này), nếu ngươi để vuột mất tính chất bảo đảm của Diệu Pháp (Thánh quả Nhập Lưu), ngươi sẽ ân hận lâu dài như thương buôn tên Serivā này vậy.
Nếu đây ông thối thất
Không hướng đích diệu pháp,
Ông sẽ khổ lâu dài
Như người buôn Se-ri.
4. Cullaseṭṭhijātakaṃ – Bổn sanh Tiểu Triệu Phú.
4. Appakenapi medhāvī pābhatena vicakkhaṇo, samuṭṭhāpeti attānaṃ aṇuṃ aggiṃva sandhaman ”ti.
4. Bậc thông minh, khéo léo (về kinh doanh), tự tạo lập bản thân dầu với vốn liếng ít ỏi, giống như đang thổi bùng lên ngọn lửa nhỏ.
Bậc trí với ít vốn,
Bậc có mắt, ít hàng,
Tự xây dựng cho mình
Tài sản lớn như vậy,
Như dùng hơi thở mình
Thổi lớn đám lửa nhỏ.
5. Taṇḍulanāḷijātakaṃ – Bổn sanh Đấu Gạo.
5. Kimagghati taṇḍulanāḷikāya assāna mūlāya vadehi rāja, bārāṇasiṃ santarabāhirantaṃ ayamagghati taṇḍulanāḷikā ”ti.
5. Tâu đức vua, xin ngài hãy hỏi về giá tiền của những con ngựa, về trị giá của một đấu gạo là bao nhiêu? – Đấu gạo này trị giá bằng thành bārāṇasī gồm cả nội thành và ngoại thành.
Giá đấu gạo bao nhiêu?
– Bằng cả nội ngoại thành,
Thành phố Ba-la-nại
Cả năm trăm con ngựa
Cũng chỉ bằng giá tiền
Một đấu gạo mà thôi.
6. Devadhammajātakaṃ – Bổn sanh Thiên Pháp
6. Hiri-ottappasampannā sukkadhammasamāhitā, santo sappurisā loke devadhammāti vuccare ”ti.
6. Những người thành tựu pháp tàm và quý, chuyên chú về các pháp thiện, tốt lành, các hiền nhân ở thế gian, được gọi là ‘các bậc có Thiên pháp.’
Ðầy đủ tàm và quý,
Chuyên tâm về bạch pháp,
An tịnh bậc chân nhân,
Ở đời gọi thiên pháp.
7. Kaṭṭhahārijātakaṃ – Bổn sanh Cô Gái Nhặt Củi
7. Putto tyāhaṃ mahārāja tvaṃ maṃ posa janādhipa, aññepi devo poseti kiñca devo sakaṃ pajan ”ti.
7. Thưa Đại Vương, tôi là con trai của ngài. Thưa Quân Vương, ngài hãy nuôi dưỡng tôi. Đức vua nuôi dưỡng những kẻ khác nữa, tại sao đức vua (không nuôi) người con của chính mình?
Kính thưa bậc Ðại Vương.
Tôi là con trai ngài,
Kính thưa bậc nhân chủ,
Hãy nuôi dưỡng con lớn!
Vua nuôi dưỡng người khác,
Không nuôi con mình sao?
8. Gāmaṇijātakaṃ – Bổn sanh Gāmaṇī
8. Api ataramānānaṃ phalāsāva samijjhati, vipakkabrahmacariyosmi evaṃ jānāhi gāmaṇī ”ti.
8. Kết quả mong muốn được thành tựu cho những người không vội vã. Ta có Phạm hạnh đã được thuần thục, này Gāmaṇi ngươi hãy biết như thế.
Không vội vã vượt qua,
Thành tựu quả mong đợi,
Gà-ma-ni hãy biết
Phạm hạnh ta thành phục.
9. Makhādevajātakaṃ – Bổn sanh Makhādeva
9. Uttamaṅgaruhā mayhaṃ ime jātā vayoharā, pātubhūtā devadūtā pabbajjāsamayo mamā ”ti.
9. Các sợi tóc bạc này của ta, những vật lấy đi tuổi thọ, đã xuất hiện. Các vị sứ giả của cỏi trời đã hiện ra, là thời điểm xuất gia của ta.
Những tóc bạc đầu ta,
Xuất hiện, cướp tuổi xanh,
Các Thiên sứ đã đến,
Là thời ta xuất gia.
10. Sukhavihārijātakaṃ – Bổn sanh Vị Sống An Lạc
10. Yañca aññe na rakkhanti yo ca aññe na rakkhati, sa ve rāja sukhaṃ seti kāmesu anapekhavā ”ti.
10. Người không được những người khác bảo vệ, và người không bảo vệ những người khác, tâu đức vua, người ấy quả nhiên ngủ một cách an lạc, không có sự trông mong về các dục.
Người không được bảo vệ,
Không bảo vệ người khác,
Thưa Ðại Vương, người ấy.
Thật sự được an lạc.
Vì không chờ đợi gì,
Ðối với các dục vọng.
Apaṇṇakavaggo paṭhamo.
***
Phẩm Không Lỗi Lầm là thứ nhất.
***
TASSUDDĀNAṂ
Varāpaṇṇakavaṇṇupathaserivaro suvicakkhaṇataṇḍulanāḷikassaṃ, hiriputtavaruttagāmaṇinā yo ca na rakkhati tena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Bổn sanh không lỗi lầm cao quý, bãi cát, Serivā, vị vô cùng khéo léo, đấu gạo, pháp hổ thẹn, người con trai, tóc bạc, với vị Gāmaṇī, và người không bảo vệ, với chuyện ấy là mười.
–ooOoo–
▪ 2. SĪLAVAGGO – Phẩm Giới
1. Lakkhaṇamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Lakkhaṇa
11. Hoti sīlavataṃ attho paṭisanthāra vuttinaṃ, lakkhaṇaṃ passa āyantaṃ ñātisaṅghapurakkhataṃ, atha passasimaṃ kāḷaṃ suvihīnaṃva ñātihī ”ti.
11. Sự hưng thịnh là dành cho những người có giới, có lối cư xử tiếp đãi ân cần. Hãy nhìn xem nai Lakkhaṇa dẫn đầu đoàn thân quyến đang trở về, rồi hãy nhìn xem nai Kāḷa này bị mất mát trầm trọng về quyến thuộc.
Con người có giới hạnh
Ðược phần thưởng đón mừng,
Xem Lak-kha-na về,
Cầm đầu chúng bà con,
Hãy xem Ca-la này
Với bà con hủy diệt.
2. Nigrodhamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Nigrodha
12. Nigrodhameva seveyya na sākhamupasaṃvase, nigrodhasmiṃ mataṃ seyyo yañce sākhasmiṃ jīvitan ”ti.
12. Nên thân cận với Nigrodha mà thôi, không nên sống gần Sākha. Việc bị chết ở chổ Nigrodha còn tốt hơn là việc có được sự sống còn ở nơi Sākha.
Sống với Ni-gro-dha,
Chớ sống với Sa-kha!
Chết với Ni-gro-dha,
Hơn sống với Sa-kha.
3. Kaṇḍinajātakaṃ – Bổn sanh Mũi Tên
13. Dhiratthu kaṇḍinaṃ sallaṃ purisaṃ gāḷhavedhinaṃ, dhiratthu taṃ janapadaṃ yatthitthī parināyikā, te cāpi dhikkitā sattā ye itthīnaṃ vasaṃ gatā ”ti.
13. Thật xấu hổ thay cây tên có mũi nhọn xuyên sâu vào người. Thật xấu hổ thay xứ sở ấy, nơi có vị lãnh đạo là người nữ. Và luôn cả những kẻ chịu ở dưới quyền lực của các nữ nhân, các chúng sanh ấy bị quở trách.
Ðáng nguyền rủa mũi tên
Bắn người gây thống khổ,
Ðáng nguyền rủa quốc độ
Do nữ thần lãnh đạo!
Ðáng nguyền rủa chúng sanh
Chịu thần phục đàn bà!
4. Vātamigajātakaṃ – Bổn sanh Con Nai Gió
14. Na kiratthi rasehi pāpiyo āvasehi vā santhavehi vā, vātamigaṃ gehanissitaṃ vasamānesi rasehi sañjayo ”ti.
14. Nghe nói rằng không có gì tệ hại hơn các vị nếm, hoặc các chỗ ngụ, hoặc các sự giao thiệp bạn bè. (Người giữ vườn) Sañjaya đưa con nai gió sống ở rừng sâu vào sự khống chế bằng các vị nếm.
Không gì ác hại hơn
Truyền thuyết nói là vậy,
Ở nhà hay với bạn,
San-gia-da với vị
Chinh phục con nai gió
Chỉ nương tựa núi rừng
5. Kharādiyajātakaṃ – Bổn sanh Kharādiyā
15. Aṭṭhakhuraṃ kharādiye migaṃ vaṅkātivaṅkinaṃ, sattahi kalāhatikkantaṃ na taṃ ovaditussahe ”ti.
15. Này Kharādiyā, đối với con nai, loài có tám móng chân,[1] có sừng cong quẹo ở gốc và ngọn, là kẻ bỏ lỡ bảy buổi học, không nên ra sức để giáo huấn nó.
[1] Mỗi một bàn chân có hai móng, bốn chân có tám móng (JaA. i, 160).
Khi nai có tám móng
Với sừng chĩa nhiều nhánh,
Lại có bảy mưu chước
Ðể tự cứu lấy mình,
Ta không dạy nó nữa,
Hỡi Kha-ra-di-ya.
6. Tipallatthamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Tipallattha
16. Migaṃ tipallatthamanekamāyaṃ aṭṭhakhuraṃ aḍḍharattāvapāyiṃ, ekena sotena chamāssasanto chahi kalāhatibhoti bhāgineyyo ”ti.
16. Con nai có tư thế nằm theo ba kiểu, có nhiều mưu mẹo, có tám móng chân, có việc uống nước vào lúc nửa đêm. Trong khi thở bằng một lỗ mũi ở trên mặt đất, con nai cháu vượt qua (hiểm nạn) nhờ sáu mưu chước.
Nai với ba cử chỉ,
Với nhiều sự khôn ngoan,
Biết dùng chân tám móng,
Biết nửa đêm uống nước;
Chỉ với một lỗ tai,
Thở theo nhịp độ đất;
Với sáu sự khôn ngoan,
Cháu tôi thắng người thù.
7. Mālutajātakaṃ – Bổn sanh Gió
17. Kāḷe vā yadi vā juṇhe yadā vāyati māluto, vātajāni hi sītāni ubhotthamaparājitā ”ti.
17. Dẫu ở vào hạ huyền hay ở vào thượng huyền, vào lúc gió thổi, bởi vì khi nổi lên các cơn gió thì lạnh; cả hai không ai thua ở vấn đề này.
Nếu là tối hay sáng
Khi nào có gió thổi,
Có gió thổi, trời lạnh
Cả hai, không ai thua.
8. Matakabhattajātakaṃ – Bổn sanh Thực Phẩm Cúng Vong
18. Evañca sattā jāneyyuṃ dukkhāyaṃ jātisambhavo, na pāṇo pāṇinaṃ haññe pāṇaghātī hi socatī ”ti.
18. Và chúng sanh nên biết rằng khổ này có sanh là nguồn sanh khởi, người có mạng sống không nên giết hại mạng sống (kẻ khác), bởi vì kẻ giết hại mạng sống sẽ sầu muộn.
Nếu chúng sanh biết được
Sự này sanh đau khổ,
Hữu tình sẽ không còn
Giết hại hữu tình nữa,
Vì ai giết hũu tình,
Sẽ phải sầu, phải khổ.
9. Āyācitabhattajātakaṃ – Bổn sanh Vật Thực Cầu Khấn
19. Sace muñce pecca muñce muccamāno hi bajjhati, na hevaṃ dhīrā muccanti mutti bālassa bandhanan ”ti.
19. Nếu muốn được thoát khỏi (lời cầu khấn), và sau khi chết cũng được thoát khỏi, bởi vì trong khi được thoát khỏi (lời cầu khấn) thì bị trói buộc (vào nghiệp sát sinh ở lễ tế). Chính vì sự thoát ra của kẻ ngu là sự trói buộc, các bậc sáng trí không thoát ra như thế.
Nếu muốn thoát hiện tại,
Hãy nghĩ thoát đời sau,
Thoát hiện tại như vậy,
Là trói buộc thật chặt,
Bậc trí không thoát vậy,
Thoát vậy, buộc kẻ ngu.
10. Naḷapānajātakaṃ – Bổn sanh Uống Nước Bằng Ống Sậy
20. Disvā padamanuttiṇṇaṃ disvānotaritaṃ padaṃ, naḷena vāriṃ pivissāma neva maṃ tvaṃ vadhissasī ”ti.
20. Sau khi nhìn thấy không có dấu chân đi lên, và nhìn thấy dấu chân đi xuống, bọn ta sẽ uống nước bằng ống sậy, ngươi sẽ không bao giờ giết được ta.
Thấy dấu chân đi xuống,
Không thấy dấu chân lên,
Uống nước với cọng lau,
Ngươi không giết ta được!
Sīlavaggo dutiyo.
***
Phẩm Giới là thứ nhì.
***
TASSUDDĀNAṂ
Atha lakkhaṇasākhadhiratthupuna
nakiratthirasehikharādiyā,
atibhotirasamālutapāṇa
muccena naḷa-avhayanena bhavanti dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ là bổn sanh nai Lakkhaṇa, nai Sākha, thêm nữa là thật xấu hổ thay, nghe nói rằng không có gì với các vị nếm, nai Kharādiyā, vượt qua hiểm nạn, ngọn gió, và mạng sống,
với sự thoát khỏi, với việc gọi tên cây sậy là mười.
–ooOoo–
▪ 3. KURUṄGAVAGGO
▪ 3. Phẩm Sơn Dương
1. Kuruṅgamigajātakaṃ – Bổn sanh Nai Sơn Dương.
21. Ñātametaṃ kuruṅgassa yaṃ tvaṃ sepaṇṇi seyyasi, aññaṃ sepaṇṇiṃ gacchāmi na me te ruccate phalan ”ti.
21. Đối với loài sơn dương, điều này đã được biết, là việc (trái cây của) ngươi bị bầm dập, này cây Sepaṇṇi. Ta sẽ đi đến cây Sepaṇṇi khác; trái cây của ngươi không được ta ưa thích.
Con nai biết rõ được
Trái cây ngươi làm rơi,
Ta đi đến cây khác,
Ta không thích trái ngươi.
2. Kukkurajātakaṃ – Bổn sanh Các Con Chó.
22. Ye kukkurā rājakulamhi vaddhā koleyyakā vaṇṇabalūpapannā, te ’me na vajjhā mayamasma vajjhā nāyaṃ saghaccā dubbalaghātikāyan ”ti.
22. Những con chó được nuôi dưỡng ở hoàng cung, thuộc gia tộc giàu có, đạt được vóc dáng và sức mạnh, chúng sẽ không bị giết chết; còn chúng tôi sẽ bị giết chết. Việc này không phải là sẽ bức tử chung chung, việc này là sự bức tử những kẻ yếu đuối.
Những con chó lớn lên
Trong cung điện nhà vua,
Thuộc loài nòi giống tốt,
Có dung sắc, sức mạnh,
Chúng khỏi bị giết hại.
Chỉ chúng tôi bị giết.
Ðây không giết tất cả;
Chỉ giết kẻ yếu hèn.
3. Bhojājānīyajātakaṃ – Bổn sanh Con Ngựa Thuần Chủng.
23. Api passena semāno sallehi sallīkato, seyyo va vaḷavā bhojjo yuñja maññeva sārathī ”ti.
23. Mặc dầu đang nằm nghiêng một bên hông, do đã bị những mũi tên bắn trúng, nhưng ta là ngựa thuần chủng hạng nhất, này người kỵ mã, hãy thắng yên cương cho ta.
Nay tuy nằm một bên,
Bị bắn bởi mũi tên,
Con ngựa nòi giống tốt,
Thắng hơn con ngựa khác
Hỡi này người kỵ mã
Hãy nai nịt cho tôi.
4. Ājaññajātakaṃ – Bổn sanh Con Ngựa Nòi.
24. Yadā yadā yattha yadā yattha yattha yadā yadā, ājañño kurute vegaṃ hāyanti tattha vāḷavā ”ti.
24. Vào bất cứ lúc nào, ở nơi nào, vào giây phút nào; ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ thời gian nào, khi con ngựa nòi ra sức, các con ngựa tầm thường bị bỏ lại tại nơi ấy.
Dẫu thời nào, chỗ nào,
Dẫu khi nào ở đâu,
Con ngựa nòi giống tốt
Vẫn hăng hái chiến đấu
Còn con ngựa yếu hèn
Tại đấy, chịu đầu hàng.
5. Titthajātakaṃ – Bổn sanh Bến Tắm.
25. Aññamaññehi titthehi assaṃ pāyehi sārathi, accāsanassa puriso pāyāsassapi tappatī ”ti.
25. Này xa phu, ngươi hãy cho con ngựa uống nước ở những bến tắm nơi này nơi khác. Đối với việc ăn quá nhiều, dầu là cơm sữa, con người cũng còn chán ngấy.
Hãy thay bến nước khác,
Hỡi này người đánh xe,
Hãy cho ngựa uống nước
Khi bến này, bến khác.
Người quá gần cơm sữa,
Cũng chán món ăn ấy!
6. Mahilāmukhajātakaṃ – Bổn sanh Voi Mahilāmukha.
26. Purāṇacorāna vaco nisamma mahilāmukho pothayamānucāri, susaññatānaṃ hi vaco nisamma gajuttamo sabbaguṇesu aṭṭhā ”ti.
26. Sau khi nghe theo lời nói của những kẻ trộm trước kia, con voi Mahilāmukha đã thực hành việc giết hại. Sau khi nghe theo lời nói của chính các vị có giới hạnh tốt đẹp, con voi tối thượng đã trú vào tất cả các đức tánh tốt.
Trước nghe lời ăn trộm,
Voi báu này giết hại,
Sau nghe lời bậc trí,Con voi báu tối thượng
An trú trên thiện tánh,
Làm công đức tốt đẹp.
7. Abhiṇhajātakaṃ – Bổn sanh (Gặp Gỡ) Thường Xuyên.
27. Nālaṃ kabalaṃ padātave na ca piṇḍaṃ na kuse na ghaṃsituṃ, maññāmi abhiṇhadassanā nāgo sinehamakāsi kukkure ”ti.
27. Không còn hứng thú để nhận lấy vắt cơm, và không (còn hứng thú) với đồ ăn, không (còn hứng thú) với các bó cỏ, không còn hứng thú để kỳ cọ (khi tắm); ta nghĩ rằng con voi, do việc gặp gỡ thường xuyên, đã có lòng yêu mến con chó.
Một miếng, nó không ăn,
Không nuốt cơm và cỏ,
Tôi nghĩ vì con voi
Thường thấy bạn, con chó,
Cho nên nó luyến ái
Con chó ấy, bạn mình.
8. Nandivisālajātakaṃ – Bổn sanh Nandivisāla.
28. Manuññameva bhāseyya nāmanuññaṃ kudācanaṃ manuññaṃ bhāsamānassa garubhāraṃ udaddhari, dhanañca naṃ alabbhesi tena c’ attamano ahū ”ti.
28. Nên nói chỉ toàn lời hòa nhã, không nói lời không hòa nhã vào bất cứ lúc nào. (Con bò) đã lôi đi gánh hàng nặng cho người nói lời hòa nhã, và đã đạt được tài sản cho người ấy; và nhờ thế nó đã được hoan hỷ.
Chỉ nói lời từ hòa,
Không từ hòa, không nói.
Ai nói lời từ hòa,
Kéo đi được gánh nặng,
Khiến nó được tài sản.
Do vậy, nó ưa thích.
9. Kaṇhajātakaṃ – Bổn sanh Con Bò Đen.
29. Yato yato garudhuraṃ yato gambhīravattani, tadassu kaṇhaṃ yuñjanti svāssu taṃ vahate dhuran ”ti.
29. Ở bất cứ nơi nào có khối hàng nặng nề, ở nơi nào có bãi lầy sâu, khi ấy hãy buộc ách vào con bò đen, nó sẽ vận chuyển khối hàng ấy.
Với gánh nặng phải mang,
Với khúc sông phải qua,
Chúng cột con bò đen,
Bò đi kéo gánh nặng!
10. Munikajātakaṃ – Bổn sanh Con Heo Munika.
30. Mā munikassa pihayi āturannāni bhuñjati, appossukko bhusaṃ khāda etaṃ dīghāyulakkhaṇan ”ti.
30. Chớ mong cầu (thức ăn) dành cho heo Munika. Nó ăn các thức ăn của tử tù. Hãy ít ham muốn, hãy nhai cám trấu; điều ấy là đặc điểm của cuộc sống trường thọ.
Chớ ham Mu-ni-ka,
Nó ăn để chờ chết,
Ít dục, hãy ăn rơm,
Do vậy thọ mạng dài.
Kuraṅgavaggo tatiyo.
*****
Phẩm Sơn Dương là thứ ba.
***
TASSUDDĀNAṂ
Kuruṅgassakukkurabhojavaro puna vāḷavassasirivayano, mahiḷāmukhanāmanuññavaro vahate dhuramunikena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Đối với loài sơn dương, các con chó, con ngựa thuần chủng, lại thêm con ngựa nòi, tỏ lộ sự vinh quanh, voi Mahilāmukha, (gặp gỡ thường xuyên), không nói lời không hòa nhã,
(con bò đen) vận chuyển khối hàng, với con heo Munika là mười.
–ooOoo–
▪ 4. KULĀVAKAVAGGO
▪ 4. Phẩm Tố Chim Con
CHƯƠNG MỘT (Một bài kệ)
1. Kulāvakajātakaṃ – Bổn sanh Tổ Chim Con.
31. Kulāvakā mātali simbalismiṃ īsāmukhena parivajjayassu, kāmaṃ cajāma asuresu pāṇaṃ māyime dijā vikulāvā ahesun ”ti.
31. Này Mātali, hãy để cho các tổ chim con ở rừng cây Simbali được lánh xa khỏi đầu gọng xe.
Ta sẵn lòng từ bỏ mạng sống ở nơi các A-tu-la.
Chớ để các con chim này trở nên không còn có tổ chim.
Hãy để tổ chim con,
Hỡi này Mà-ta-li!
Trong rừng Sim-ba-li
Tránh miệng ác chủ tể,
Ta sẵn sàng nộp mạng
Cho các A-tu-la,
Chớ để các chim này
Bị xé nát khỏi tổ.
2. Naccajātakaṃ – Bổn sanh Nhảy Múa.
32. Rudaṃ manuññaṃ ruciyā ca piṭṭhi veḷuriyavaṇṇūpanibhā ca gīvā, vyāmamattāni ca pekhuṇāni naccena te dhītaraṃ no dadāmī ”ti.
32. Ngươi có tiếng hót êm dịu, và cái lưng óng ánh, cái cổ tựa như màu sắc của ngọc bích, và chùm lông đuôi dài một sải tay, bởi việc nhảy múa, ta không gả con gái cho ngươi.
Âm thanh ngươi êm dịu,
Lưng người thật đẹp đẽ,
Cổ ngươi về màu sắc
Chẳng khác ngọc lưu ly,
Lông đuôi người xòe rộng,
Dài rộng đến một tầm,
Nhưng vì ngươi nhảy múa,
Ta không cho con gái.
3. Sammodamānajātakaṃ – Bổn sanh Trong Lúc Thân Thiện.
33. Sammodamānā gacchanti jālamādāya pakkhino, yadā te vivadissanti tadā ehinti me vasan ”ti.
33. Trong lúc thân thiện, các con chim ra đi và mang theo cái lưới bẫy. Khi nào chúng tranh cãi, khi ấy chúng sẽ rơi vào quyền kiểm soát của ta.
Khi chung sống hòa hợp,
Các chim mang lưới đi,
Khi chúng tranh cãi nhau,
Chúng rơi vào tay ta.
4. Macchajātakaṃ – Bổn sanh Con Cá.
34. Na maṃ sītaṃ na maṃ uṇhaṃ na maṃ jālasmiṃ bādhanaṃ, yañca maṃ maññate macchī aññaṃ so ratiyā gato ”ti.
34. Lạnh không quấy rối ta, nóng không quấy rối ta, sự vướng mắc vào tấm lưới không quấy rối ta, mà là việc con cá cái nghĩ về ta rằng: ‘Gã đi đến với con cá cái khác vì khoái lạc.’
Ta không vì nóng lạnh,
Không vì bị mắc lưới,
Chỉ sợ vợ ta nghĩ,
Ta say mê nàng khác!
5. Vaṭṭakajātakaṃ – Bổn sanh Chim Cút Con.
35. Santi pakkhā apatanā santi pādā avañcanā, mātā pitā ca nikkhantā jātaveda paṭikkamā ”ti.
35. Có hai cánh mà không bay được, có hai chân mà không đi được, mẹ và cha đã rời khỏi, hỡi ngọn lửa, hãy lùi lại.
Có cánh không bay được,
Có chân không thể đi,
Cha mẹ đã bỏ ta,
Hỡi lửa, hãy đi lui!
Trang 16:
Trang 17:
6. Sakuṇajātakaṃ – Bổn sanh Các Con Chim.
36. Yaṃ nissitā jagatiruhaṃ vihaṅgamā svāyaṃ aggiṃ pamuñcati, disā bhajatha vakkaṅgā jātaṃ saraṇato bhayan ”ti.
36. Các con chim nương tựa vào cây cối, cây ấy bùng lên ngọn lửa. Các con chim phân tán các phương. Sự sợ hãi sanh lên từ sự nương nhờ.
Các chim sống trên đời,
Dựa vào trú xứ nào,
Chỗ ấy sanh ra lửa,
Hỡi loài chim tránh xa,
Hãy đi các phương khác,
Nếu y tựa chỗ ấy,
Sợ hãi sẽ sanh ra.
7. Tittirajātakaṃ – Bổn sanh Chim Đa Đa.
37. Ye vaddhamapacāyanti narā dhammassa kovidā, diṭṭheva dhamme pāsaṃsā samparāye ca suggatī ”ti.
37. Những người nào tôn kính bậc cao niên, (những người ấy) là những người rành rẽ về Pháp, được khen ngợi ngay trong kiếp này, và có cảnh giới an lạc trong kiếp sau.
Ai kính bậc lớn tuổi,
Là thiện xảo trong Pháp,
Ðời này được tán thán,
Ðời sau, sanh cõi lành.
8. Bakajātakaṃ – Bổn sanh Con Cò
38. Nāccantaṃ nikatippañño nikatyā sukhamedhati, ārādheti nikatippañño bako kakkaṭakāmivā ”ti.
38. Người có trí gian lận không đạt được sự an lạc tột đỉnh do sự gian lận, ví như con cò có trí gian lận gặp phải con cua.
Kẻ có trí lường gạt
Không may bị kẻ gạt,
Con cò có trí gạt
Ðã bị cua gạt lại.
9. Nandajātakaṃ – Bổn sanh Nanda
39. Maññe sovaṇṇayo rāsi sovaṇṇamālā ca nandako, yattha dāso āmajāto ṭhito thullāni gajjatī ”ti.
39. Ta nghĩ rằng khối của cải và xâu chuỗi vàng vòng là nơi nào tớ trai Nandaka, con của nô tỳ, đứng gào thét những lời thô lỗ.
Nghĩ rằng là chỗ chôn
Ðống vàng và nữ trang,
Chỗ nô tỳ hạ sanh
Tên là Nan-da-ka
Ðang đứng và la to
Những lời lẽ thô bạo.
10. Khadiraṅgārajātakaṃ – Bổn sanh Than Hừng Cây Khadira.
40. Kāmaṃ patāmi nirayaṃ uddhapādo avaṃsiro, nānariyaṃ karissāmi handa piṇḍaṃ paṭiggahā ”ti.
40. Ta sẵn lòng rơi vào địa ngục, chân phía trên, đầu phía dưới. Việc không thánh thiện thì ta sẽ không làm.[1] Nào, xin ngài hãy thọ nhận đồ ăn khất thực.
[1] Đức Bồ Tát nói với Ma Vương về quyết tâm của mình rồi bước qua hố than hừng để dâng vật thực đến vị Phật Độc Giác (JaA. i, 233).
Ta thà rơi địa ngục,
Chân trên, đầu phía dưới,
Ta sẽ làm việc Thánh,
Hãy nhận lấy món ăn.
Kulāvakavaggo catuttho.
*****
Phẩm Tổ Chim Con là thứ tư.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Sirimātalidhītarapakkhivaro ratirāgatomātāpitā ca puna, jagatīruhavuddhasukakkaṭako tathā nandakapiṇḍavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Mātali vinh quang, người con gái, con chim cao quý, vì khoái lạc luyến ái, rồi thêm mẹ và cha, (cây cối) mọc ở đất, bậc cao niên, con cua khôn ngoan, tương tự, với Nandaka, và đồ ăn khất thực là mười.
–ooOoo–
▪ 5. ATTHAKĀMAVAGGO
▪ 5. Phẩm Mong Mỏi Sự Tấn Hoá
1. Losakajātakaṃ – 10. Bổn sanh Losaka.
41. Yo atthakāmassa hitānukampino ovajjamāno na karoti sāsanaṃ, ajiyā pādamolubbha mittako viya socatī ”ti.
41. Trong khi được giáo huấn, kẻ nào không làm theo lời giảng dạy của người có lòng mong mỏi sự tấn hóa, có lòng thương tưởng sự lợi ích (đến mình), (kẻ ấy) tựa như Mittaka, sau khi nắm vào bàn chân của con dê, bị sầu muộn.
Với người muốn mình tốt,
Với người thương tưởng mình,
Cứng đầu không theo lời,
Sẽ gặp điều sầu muộn.
Chẳng khác Mitaka
Nắm chặt chân con dê.
2. Kapotakajātakaṃ – Bổn sanh Chim Bồ Câu.
42. Yo atthakāmassa hitānukampino ovajjamāno na karoti sāsanaṃ, kapotakassa vacanaṃ akatvā amittahatthatthagatova setī ”ti.
42. Trong khi được giáo huấn, kẻ nào không làm theo lời giảng dạy của người có lòng mong mỏi sự tấn hóa, có lòng thương tưởng sự lợi ích (đến mình), (kẻ ấy) ví như (con quạ), sau khi không làm theo lời nói của chim bồ câu, bị sa vào trong tay của kẻ địch và nằm yên (chịu sự hành hạ).
Với người muốn mình lợi,
Với người thương tưởng mình
Có những lời khuyên bảo,
Nhưng không làm theo lời,
Như con quạ tham lam
Không làm theo lời khuyên
Của con chim bồ câu,
Nó bị ngã rơi vào
Như rơi vào tay địch.
3. Veḷukajātakaṃ – Bổn sanh Veḷuka.
43. Yo atthakāmassa hitānukampino ovajjamāno na karoti sāsanaṃ, evaṃ so nihato seti veḷukassa yathā pitā ”ti.
43. Trong khi được giáo huấn, kẻ nào không làm theo lời giảng dạy của người có lòng mong mỏi sự tấn hóa, có lòng thương tưởng sự lợi ích (đến mình), tương tự như thế, kẻ ấy bị giết chết nằm dài giống như cha của (con rắn độc) Veḷuka vậy.
Với người muốn mình lợi,
Với người thương tưởng mình,
Nếu cứng đầu không nghe
Không theo lời khuyên dạy,
Sẽ bị hại đến chết,
Như Cha Ve-lu-ka.
4. Makasajātakaṃ – Bổn sanh Con Muỗi.
44. Seyyo amitto matiyā upeto na tveva mitto mativippahīno, ‘makasaṃ vadhissan ’ti hi eḷamūgo putto pitu abbhidā uttamaṅgan ”ti.
44. Kẻ đối nghịch có tri thức vẫn tốt hơn người bạn hữu không có tri thức. Đứa con trai ngu dốt (nói rằng): ‘Con sẽ giết con muỗi,’ rồi đập bể đôi cái đầu của người cha.
Tốt hơn là kẻ thù
Nhưng có trí sáng suốt,Còn hơn là người bạn
Thiếu trí tuệ thông minh.
Ðứa con ngu và điếc,
Ðịnh giết chết con muỗi,
Lại chém đầu người cha
Vỡ ra thành hai mảnh.
5. Rohiṇījātakaṃ – Bổn sanh Rohiṇī.
45. Seyyo amitto medhāvī yañce bālānukampako, passa rohiṇikaṃ jammiṃ mātaraṃ hantvāna socatī ”ti.
45. Kẻ đối nghịch có sự thông minh vẫn tốt hơn kẻ ngu dốt có lòng thương tưởng. Ngươi hãy nhìn xem Rohiṇī đần độn, sau khi giết chết mẹ, bị sầu muộn.
Tốt hơn là kẻ thù
Có trí tuệ thông minh,
Hơn kẻ thương hại mình,
Nhưng ngu si vô trí,
Hãy xem Rô-hi-ni,
Giết bà mẹ khốn khổ,
Rồi than khóc hoài công.
6. Ārāmadūsakajātakaṃ – Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Khu Vườn.
46. Na ve anatthakusalena atthacariyā sukhāvahā, hāpeti atthaṃ dummedho kapi ārāmiko yathā ”ti.
46. Thật vậy, các việc làm có mục đích (được làm) bởi kẻ không thiện xảo về mục đích thời không đem lại sự an lạc. Kẻ ngu muội bỏ rơi mục đích, giống như con khỉ là kẻ chăm sóc khu vườn.
Bậc thiện không làm hại,
Làm lành đem đến lạc;
Người ngu hại điều lành,
Như khỉ giết hại trong vườn.
7. Vāruṇidūsakajātakaṃ – Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Rượu.
47. Na ve anatthakusalena atthacariyā sukhāvahā, hāpeti atthaṃ dummedho koṇḍañño vāruṇiṃ yathā ”ti.
47. Thật vậy, các việc làm có mục đích (được làm) bởi kẻ không thiện xảo về mục đích, thời không đem lại sự an lạc. Kẻ ngu muội bỏ rơi mục đích, giống như Koṇḍañña làm hỏng rượu.
Bậc thiện không làm hại,
Làm lành đem đến lạc,
Người ngu hại điều lành
Thật giống Kon-dan-na
Ðổ muối vào bình rượu.
8. Vedabbhajātakaṃ – Bổn sanh Vedabbha.
48. Anupāyena yo atthaṃ icchati so vihaññati, cetā haniṃsu vedabbhaṃ sabbe te vyasanamajjhagū ”ti.
48. Kẻ nào ước muốn điều lợi ích bằng cách thức không đúng, kẻ ấy bị tiêu diệt. Những kẻ trộm cướp đã giết hại Vedabbha; tất cả bọn chúng đã đi đến bất hạnh.
Dùng phương tiện không tốt,
Mong lợi sẽ bị hại,
Cướp giết Ve-dab-bha,
Tất cả bị diệt vong.
9. Nakkhattajātakaṃ – Bổn sanh Ngôi Sao.
49. Nakkhattaṃ patimānentaṃ attho bālaṃ upaccagā, attho atthassa nakkhattaṃ kiṃ karissanti tārakā ”ti.
49. Trong lúc kẻ ngu si chờ đợi ngôi sao, điều lợi ích đã bỏ rơi nó. Điều lợi ích (nó đạt được) là ngôi sao của điều lợi ích; các vì tinh tú sẽ làm được điều gì.
Chờ đợi các vì sao
Kẻ ngu hỏng điều lành,
Ðiều lành chiếu điều lành,
Sao trời làm được gì?
10. Dummedhajātakaṃ – Bổn sanh Những Kẻ Ngu Muội.
50. Dummedhānaṃ sahassena yañño me upayācito, idāni khohaṃ yajissāmi bahū adhammiko jano ”ti.
50. Lễ tế thần linh với một ngàn kẻ ngu muội đã được ta cầu khẩn. Thật vậy, giờ đây ta sẽ cúng tế thần linh; kẻ phi đạo đức thì có nhiều.
Với ngàn kẻ vô trí,
Ta nguyện giết tế lễ,
Nay ta sẽ làm lễ,
Giết những kẻ phi pháp.
Atthakāmavaggo pañcamo.
Paṭhamo paṇṇasako.
*****
Phẩm Mong Mỏi Sự Tấn Hóa là thứ năm.
Năm mươi chuyện thứ nhất.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Atha mittakamātukapotavaro tathā veḷukaeḷamūgo rohiṇī, kapivāruṇicetacarā ca puna tathā tārakayaññavarena dasa.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC PHẨM NÀY
Giờ là gã Mittaka và mẹ, rồi đến chim bồ câu tương tự là (rắn độc) Veḷuka, (đứa con) ngu dốt, Rohiṇī (đần độn), con khỉ (phá vườn), rượu (bị làm hỏng), thêm những kẻ trộm cướp, cũng vậy, (việc xem) ngôi sao, với lễ tế thần linh là mười.
–ooOoo–
—-
Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ Bổn Sanh I
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda