Phân Tích Giới Tỳ Khưu I – Chương Pārājika: Điều Pārājika Thứ Tư Phần 2
MAIN CONTENT
Phân Tích Giới Tỳ Khưu I
Chương 2: Pārājika
Điều Pārājika Thứ Tư Phần 2
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng … Tôi chứng … Tôi đã chứng được tam thiền và tứ thiền … … tam thiền và phẩm vị A-la-hán … Tôi có đạt tam thiền và phẩm vị A-la-hán … Tôi có trú … Tôi đã chứng ngộ tam thiền và phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng … Tôi chứng … Tôi đã chứng được tam thiền … Tôi có đạt tam thiền … Tôi có trú … Tôi đã chứng ngộ tam thiền … và tôi đã từ bỏ tham ái … và tôi đã từ bỏ sân … và tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, và tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái … và tâm của tôi không bị che lấp bởi sân … và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng … Tôi chứng … Tôi đã chứng được tam thiền và sơ thiền … tam thiền và nhị thiền … Tôi có đạt tam thiền và nhị thiền … Tôi có trú … Tôi đã chứng ngộ nhị thiền và sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được sơ thiền … nhị thiền … tam thiền … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt tứ thiền … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ tứ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được vô phiền não giải thoát, … vô tướng giải thoát, … vô nguyện giải thoát … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện giải thoát … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ vô nguyện giải thoát” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được vô phiền não định, vô tướng định, và vô nguyện định … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt vô nguyện định … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ vô nguyện định” bị phạm tội pārājika―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sự chứng đạt về vô nguyện … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ sự chứng đạt về vô nguyện” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được ba Minh … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt ba Minh … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ ba Minh” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bốn nền tảng của thần thông … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ bốn nền tảng của thần thông” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được năm quyền … năm lực … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt năm lực … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ năm lực” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được bảy giác chi … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt bảy giác chi … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ bảy giác chi” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được Thánh Đạo tám chi phần … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt Thánh Đạo tám chi phần … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ Thánh Đạo tám chi phần” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt phẩm vị A-la-hán … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ phẩm vị A-la-hán” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng … và tôi chứng … và tôi đã chứng được sơ thiền … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi có đạt sơ thiền … tôi có trú … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng ngộ sơ thiền” bị phạm tội pārājika ―(như trên)―
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si và tôi đã chứng nhị thiền … tam thiền … tứ thiền … vô phiền não giải thoát … Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân” bị phạm tội pārājika: … Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt phần một nhân tố.
*****
Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện. Theo cách các từ ngữ đã được trình bày, phần một nhân tố nên được triển khai. Phần một nhân tố đã được giải chi tiết như thế nào, phần hai nhân tố cũng nên được giải chi tiết y như thế.
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng … Tôi chứng … Tôi đã chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, ―(như trên)― Tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” bị phạm tội pārājika: ―(như trên)― Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt phần tất cả các nhân tố.
Dứt phần giảng về các trường hợp đơn giản.
*****
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền … tứ thiền … vô phiền não giải thoát … vô tướng giải thoát … vô nguyện giải thoát … vô phiền não định … vô tướng định … vô nguyện định … sự chứng đạt về vô phiền não … sự chứng đạt về vô tướng … sự chứng đạt về vô nguyện … ba Minh … bốn sự thiết lập niệm … bốn chánh cần … bốn nền tảng của thần thông … năm quyền … năm lực … bảy giác chi … Thánh Đạo tám chi phần … quả Nhập Lưu … quả Nhất Lai … quả Bất Lai … phẩm vị A-la-hán … Tôi đã từ bỏ tham ái … Tôi đã từ bỏ sân … Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si … Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái … Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân … Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt sự luân phiên từng phần của một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
*****
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng tam thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đã che giấu ý định.
Sự luân phiên kết hợp của một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
*****
Phần Nhân Tố Được Tóm Lược
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tộipārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Dứt phần một nhân tố theo lời phát biểu của người nói.
Phần hai nhân tố, phần ba nhân tố, phần bốn nhân tố, phần năm nhân tố, phần sáu nhân tố, phần bảy nhân tố, phần tám nhân tố, phần chín nhân tố, phần mười nhân tố nên được thực hiện y như thế.
*****
Đây là phần tất cả các nhân tố
Với ba yếu tố, ―(như trên)― Với bảy yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán … Tôi đã từ bỏ tham ái … Tôi đã từ bỏ sân … Tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, tâm của tôi không bị che lấp bởi si,” lại cố tình nói điều dối trá, (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya ―(như trên)― đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, vô phiền não giải thoát, vô tướng giải thoát, vô nguyện giải thoát, vô phiền não định, vô tướng định, vô nguyện định, sự chứng đạt về vô phiền não, sự chứng đạt về vô tướng, sự chứng đạt về vô nguyện, ba Minh, bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, Thánh Đạo tám chi phần, quả Nhập Lưu, quả Nhất Lai, quả Bất Lai, phẩm vị A-la-hán, tôi đã từ bỏ tham ái, tôi đã từ bỏ sân, tôi đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si, tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái, tâm của tôi không bị che lấp bởi sân, và tâm của tôi không bị che lấp bởi si” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng sơ thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tôi đã chứng tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi si ―(như trên)― và tôi đã chứng sơ thiền” lại cố tình nói điều dối trá: “Tôi đã chứng nhị thiền,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya.
Với ba yếu tố, vị có ý định nói rằng: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi si, và tôi đã chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, ―(như trên)― Tâm của tôi không bị che lấp bởi tham ái” lại cố tình nói điều dối trá: “Tâm của tôi không bị che lấp bởi sân,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội pārājika, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội thullaccaya: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Phần tất cả các nhân tố.
Dứt phần giản lược về sự luân phiên theo lời phát biểu của người nói.
Dứt phần giảng về trường hợp ‘Có ý định nói.’
*****
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng, chứng, đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói.’
Với bốn yếu tố … Với năm yếu tố … Với sáu yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng, chứng, đã chứng được sơ thiền, vị tỳ khưu ấy có đạt, có trú sơ thiền, sơ thiền đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng … chứng … đã chứng được nhị thiền … tam thiền … tứ thiền … vô phiền não giải thoát … vô tướng giải thoát … vô nguyện giải thoát … vô phiền não định … vô tướng định … vô nguyện định … sự chứng đạt về vô phiền não … sự chứng đạt về vô tướng … sự chứng đạt về vô nguyện … ba Minh … bốn sự thiết lập niệm … bốn chánh cần … bốn nền tảng của thần thông … năm quyền … năm lực … bảy giác chi … Thánh Đạo tám chi phần … quả Nhập Lưu … quả Nhất Lai … quả Bất Lai … phẩm vị A-la-hán … Vị tỳ khưu ấy có đạt phẩm vị A-la-hán … có trú … phẩm vị A-la-hán đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.
Với ba yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy đã từ bỏ tham ái … đã từ bỏ sân … đã từ bỏ, đã quăng bỏ, đã thoát khỏi, đã dứt bỏ, đã xa rời, đã khai trừ, đã đoạn trừ si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa.
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu ấy có tâm không bị che lấp bởi tham ái … có tâm không bị che lấp bởi sân … có tâm không bị che lấp bởi si,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị tỳ khưu cư ngụ trong trú xá của đạo hữu đã chứng … chứng… đã chứng được sơ thiền … nhị thiền … tam thiền … tứ thiền ở nơi thanh vắng … vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng … có trú … tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị nào đã thọ dụng trú xá của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng y của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng vật thực của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng chỗ trú ngụ của đạo hữu, vị nào đã thọ dụng thuốc men trị bệnh của đạo hữu, vị tỳ khưu ấy đã chứng … chứng … đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng … có trú … tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “ Trú xá của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, y của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vật thực của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, chỗ trú ngụ của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, thuốc men trị bệnh của đạo hữu đã được thọ dụng bởi vị nào, vị tỳ khưu ấy đã chứng … chứng … đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng … có trú … tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa. ―(như trên)―
Với ba yếu tố … Với bảy yếu tố, vị cố tình nói điều dối trá: “Vị nào đạo hữu đã đi đến và đã dâng y, đã dâng vật thực, đã dâng chỗ trú ngụ, đã dâng thuốc men trị bệnh, vị tỳ khưu ấy đã chứng … chứng … đã chứng được tứ thiền ở nơi thanh vắng, vị tỳ khưu ấy có đạt tứ thiền ở nơi thanh vắng … có trú … tứ thiền ở nơi thanh vắng đã được chứng ngộ bởi vị tỳ khưu ấy,” (người nghe) hiểu được thì phạm tội thullaccaya, (người nghe) không hiểu được thì phạm tội dukkaṭa: Trước đó, vị ấy khởi ý rằng: ‘Ta sẽ nói điều dối trá,’ trong khi nói (biết rằng): ‘Ta đang nói điều dối trá,’ đã nói xong (biết rằng): ‘Điều dối trá đã được ta nói,’ đã che giấu quan điểm, đã che giấu điều mong mỏi, đã che giấu điều khao khát, đã che giấu ý định.
Dứt mười lăm phần giản lược.
Dứt phần giảng về các trường hợp liên quan đến vật dụng.
Dứt phần giản lược về sự luân phiên của các Pháp Thượng Nhân.
*****
Vì sự tự tin thái quá, vị không có ý định khoác lác, vị bị điên, vị có tâm bị rối loạn, vị bị thọ khổ hành hạ, vị vi phạm đầu tiên thì vô tội.”
–ooOoo–
CHUYỆN DẪN GIẢI – KỆ NGÔN TÓM LƯỢC
Do tự tin thái quá, trong rừng, đồ ăn khất thực, thầy tế độ, oai nghi, các sự trói buộc, nơi vắng vẻ, trú xá, các pháp (thượng nhân), được hộ độ.
Không phải là việc khó, tinh tấn, tử thần, sợ hãi, này đại đức, sự ân hận, chơn chánh, với sự tinh tấn, với sự gắn bó, đưa đến sự thành tựu, rồi có hai câu chuyện về cảm thọ.
Bà-la-môn năm chuyện, ba chuyện vị đề cập trí giải thoát, ngụ nhà, các dục đã ngăn chặn, thỏa thích, và ra đi.
Bộ xương và miếng thịt, hai chuyện kẻ giết bò, cục thịt kẻ bẫy chim, không da người hàng thịt, cây gươm kẻ mổ heo, cây lao thợ săn nai, mũi tên người xử án, cây kim kẻ dạy thú.
Người đâm thọc bị khâu, mang tinh hoàn quan tòa, chìm hố kẻ ngoại tình, Bà-la-môn quỷ quyệt là kẻ bị ăn phân.
Không da gái lăng loàn, gớm ghiếc bà bói toán, thị héo hon tàn tạ, đổ than hồng tình địch, đầu cụt kẻ trảm tù.
Tỳ khưu, tỳ khưu ni, ni tập sự, sa di, rồi vị sa di ni, đã xuất gia trong Luật của Phật Kassapa chúng đã làm ác nghiệp.
Dòng sông Tapodā, thành Rājagaha, chiến trận (Licchavi), và chuyện rồng lặn hụp, tỳ khưu Sobhita là vị A-la-hán nhớ được năm trăm kiếp.
*****
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ do sự tự tin thái quá đã nói về trí giải thoát. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Điều học đã được đức Thế Tôn quy định; phải chăng ta đã phạm tộipārājika?” Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, do sự tự tin thái quá thì vô tội.” (1)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên cư ngụ ở trong rừng sau khi đã mong mỏi; vị nào cư ngụ thì phạm tội dukkaṭa.” (2)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên đi khất thực sau khi đã mong mỏi; vị nào đi thì phạm tội dukkaṭa.” (3)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này: – “Này đại đức, tất cả các đệ tử của thầy tế độ của chúng ta đều là các vị A-la-hán.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” – “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”[10] (4)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với vị tỳ khưu khác điều này: – “Này đại đức, tất cả các học trò của thầy tế độ của chúng ta đều có đại thần lực, có đại oai lực.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” – “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (5)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi kinh hành sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― đứng yên sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― ngồi xuống sau khi đã mong mỏi rằng: ―(như trên)― nằm xuống sau khi đã mong mỏi rằng: “Như vầy thì dân chúng sẽ kính trọng ta!” Dân chúng đã kính trọng vị ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika. Và này các tỳ khưu, không nên nằm xuống sau khi đã mong mỏi; vị nào nằm xuống thì phạm tội dukkaṭa.” (6-9)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác về pháp thượng nhân đến vị tỳ khưu khác. Vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, những sự trói buộc của tôi cũng đã được dứt bỏ.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (10)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị tỳ khưu biết được tâm người khác đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: – “Này đại đức, chớ có nói như thế. Điều ấy đại đức không có.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tộidukkaṭa.” (11)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi đến nơi vắng vẻ rồi khoác lác về pháp thượng nhân. Có vị Thiên nhân đã phản bác vị tỳ khưu ấy rằng: – “Thưa ngài, chớ có nói như thế. Điều ấy ngài không có.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội dukkaṭa.” (12)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này: – “Này đạo hữu, vị tỳ khưu sống trong trú xá của đạo hữu là vị A-la-hán.” Và vị tỳ khưu ấy sống trong trú xá của người ấy. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” – “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.”1 (13)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã nói với nam cư sĩ nọ điều này: – “Này đạo hữu, vị tỳ khưu mà ngươi hộ độ bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh là vị A-la-hán.” Và người ấy đang hộ độ vị tỳ khưu ấy bằng vật dụng là y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men trị bệnh. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (14)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, không phải là việc khó để nói lên trí giải thoát.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (15)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (16)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Này đại đức, chớ có sợ hãi!” – “Này các đại đức, tôi không sợ hãi thần chết.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (17)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Này đại đức, chớ có sợ hãi!” – “Này các đại đức, có lẽ vị nào có sự ân hận thì vị ấy mới sợ hãi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (18)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự hành trì chơn chánh.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (19)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Đại đức có pháp thượng nhân không?” “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự tinh tấn đã được ra sức.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc, rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.”[11] (20)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Đại đức có pháp thượng nhân không?” – “Này các đại đức, pháp sẽ được thành tựu với vị có sự kiên trì gắn bó.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (21)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” – “Này các đại đức, người nào khác thì không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (22)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Các tỳ khưu đã nói với vị ấy điều này: – “Này đại đức, sức khoẻ có khá không? Mọi việc có được tốt đẹp không?” “Này các đại đức, phàm nhân thì không thể chịu đựng nổi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con có ý định khoác lác.” – “Này tỳ khưu, không phạm tội pārājika mà phạm tội thullaccaya.” (23)
Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này: – “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngự đến.” Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này gọi chúng ta bằng từ A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (24)
Vào lúc bấy giờ, có người Bà-la-môn nọ đã thỉnh mời các tỳ khưu và đã nói điều này: – “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ngồi xuống.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy thọ thực.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy được hài lòng.” ―(như trên)― “Thưa các ngài, xin các vị A-la-hán hãy ra đi.” Các vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chúng ta không phải là các vị A-la-hán và người Bà-la-môn này lại đối xử với chúng ta bằng danh xưng A-la-hán. Vậy chúng ta nên xử trí như thế nào đây?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vô tội trong việc xưng hô theo đức tin.” (25-28)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, tôi cũng đã đoạn tận các lậu hoặc.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (29)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, các pháp này cũng được tìm thấy ở tôi.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (30)
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ khoác lác với vị tỳ khưu khác về pháp thượng nhân. Vị ấy cũng đã nói như vầy: – “Này đại đức, tôi cũng thành thục các pháp này.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (31)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: – “Thưa ngài, hãy đến và ngụ ở gia đình.” – “Này các đạo hữu, người như tôi không thể ngụ ở gia đình.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (32)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: – “Thưa ngài, hãy đến và thọ dụng các dục.” – “Này các đạo hữu, các dục của tôi đã được ngăn chặn.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (33)
Vào lúc bấy giờ, các thân quyến đã nói với vị tỳ khưu nọ điều này: – “Thưa ngài, xin hãy thỏa thích.” – “Này các đạo hữu, tôi được thỏa thích với sự thỏa thích tối thượng.” Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: “Chỉ có những vị Thinh Văn của đức Thế Tôn mới có thể nói như thế. Và ta không phải là Thinh Văn của đức Thế Tôn; phải chăng ta đã phạm tội pārājika?” Rồi đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này tỳ khưu, (khi ấy) ngươi có tâm gì?” – “Bạch Thế Tôn, con không có ý định khoác lác.” “Này tỳ khưu, vị không có ý định khoác lác thì vô tội.” (34)
Vào lúc bấy giờ, có nhiều vị tỳ khưu đã vào mùa (an cư) mưa ở trú xứ nọ sau khi thỏa thuận rằng: – “Vị nào sẽ rời trú xứ này trước tiên, chúng ta sẽ biết vị ấy là ‘vị A-la-hán.’” Có vị tỳ khưu nọ (nghĩ rằng): “Hãy để cho các vị biết ta là ‘vị A-la-hán,’” rồi đã rời trú xứ ấy trước tiên. Vị ấy đã có nỗi nghi hoặc: ―(như trên)― “Này tỳ khưu, ngươi đã phạm tội pārājika.” (35)
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Vào lúc bấy giờ, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna cư ngụ tại núi Gijjhakūṭa. Khi ấy vào buổi sáng, đại đức Mahāmoggallāna đã mặc y cầm y bát đi đến gặp đại đức Lakkhaṇa, sau khi đến đã nói với đại đức Lakkhaṇa điều này: – “Này đại đức Lakkhaṇa, chúng ta hãy đi vào thành Rājagaha để khất thực.” – “Này đại đức, xin vâng.” Đại đức Lakkhaṇa đã trả lời đại đức Mahāmoggallāna.
Sau đó, trong khi đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đại đức Mahāmoggallāna đã mỉm cười. Khi ấy, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahāmoggallāna điều này: – “Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?” – “Này đại đức Lakkhaṇa, không phải là thời điểm của câu hỏi này, hãy hỏi ta câu hỏi này trong sự hiện diện của đức Thế Tôn.”
Sau đó, đại đức Lakkhaṇa và đại đức Mahāmoggallāna đã đi khất thực ở trong thành Rājagaha, sau bữa ăn khi đi khất thực trở về đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Lakkhaṇa đã nói với đại đức Mahā-moggallāna điều này: – “Ở đây, đại đức Mahāmoggallāna, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, tại khu vực nọ đã mỉm cười. Này đại đức Mahāmoggallāna, nhân gì duyên gì đưa đến việc mỉm cười vậy?” “Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy bộ xương đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng[12] lăn xả lao vào bộ xương ấy, rứt ra các phần ở khoảng giữa các xương sườn; bộ xương ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: ‘Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh Văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đã thấy chúng sanh ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra điều ấy thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này. Kẻ ấy, do quả của nghiệp ấy, sau khi đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (36)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy miếng thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào miếng thịt ấy day nghiến, rứt ra; miếng thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ giết trâu bò ở ngay trong thành Rājagaha này.” (37)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy cục thịt đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cục thịt ấy, day nghiến, rứt ra; cục thịt ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ bẫy chim ở ngay trong thành Rājagaha này.” (38)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn ông không có lớp da (bao bọc)[13] đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở.” ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người hàng thịt ở ngay trong thành Rājagaha này.” (39)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây gươm đang đi trong hư không. Những cây gươm ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người mổ heo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (40)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây lao đang đi trong hư không. Những cây lao ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người thợ săn nai ở ngay trong thành Rājagaha này.” (41)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các mũi tên đang đi trong hư không. Những mũi tên ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người tra khảo ở ngay trong thành Rājagaha này.” (42)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy lăn xả lao vào người ấy, rơi xuống trên cơ thể của chính người ấy; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người đánh xe ở ngay trong thành Rājagaha này.” (43)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người có lông là các cây kim đang đi trong hư không. Những cây kim ấy đã đi vào đầu của người ấy rồi đi ra từ miệng, đã đi vào miệng rồi đi ra từ ngực, đã đi vào ngực rồi đi ra từ bụng, đã đi vào bụng rồi đi ra từ hai đùi, đã đi vào hai đùi rồi đi ra từ hai cẳng chân, đã đi vào hai cẳng chân rồi đi ra từ hai bàn chân; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ nói lời đâm thọc ở ngay trong thành Rājagaha này.” (44)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người hình thù quỷ sứ đang đi trong hư không. Trong lúc đi, người ấy đặt hai tinh hoàn ở trên vai rồi đi. Trong khi ngồi xuống, người ấy ngồi xuống trên chính hai tinh hoàn ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là quan xử án[14] ở ngay trong thành Rājagaha này.” (45)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ phạm tội ngoại tình ở ngay trong thành Rājagaha này.” (46)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người bị chìm đến tận đầu ở trong hố phân, đang ăn phân bằng hai bàn tay ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là kẻ Bà-la-môn quỷ quyệt ở ngay trong thành Rājagaha này. Trong thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa, kẻ ấy đã thỉnh mời hội chúng tỳ khưu bữa ăn. Sau khi cho người đổ đầy các máng phân và thông báo thời giờ, kẻ ấy đã nói điều này: – ‘Này các ngài, hãy ăn rồi hãy mang đi theo ý thích.’” (47)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà không có lớp da (bao bọc) đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là gái lăng loàn ở ngay trong thành Rājagaha này. (48)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà hôi thối gớm ghiếc đang đi trong hư không. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào cô ấy, day nghiến, rứt ra; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là bà bói toán ở ngay trong thành Rājagaha này.” (49)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy người đàn bà bị thiêu đốt, héo hon, tàn tạ; cô ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, người đàn bà ấy đã là đệ nhất hoàng hậu của đức vua Kāliṅga. Bà ta lộ vẻ ghen tương đã dùng chậu than cháy đỏ trút lên người tình địch.” (50)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy thi thể không đầu đang đi trong hư không, còn các con mắt và miệng thì ở trên ngực của người ấy. Có những con chim kên kên, chim quạ, chim ưng lăn xả lao vào người ấy, day nghiến, rứt ra; người ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, chúng sanh ấy đã là người xử tử bọn trộm cướp tên Hārika ở ngay trong thành Rājagaha này.” (51)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị tỳ khưu đang đi trong hư không, y hai lớp của vị ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ấy đã rên rỉ khổ sở. ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy đã là vị ác tỳ khưu ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa.” (52)
“Này đại đức, trong khi đang đi xuống từ núi Gijjhakūṭa, ta đây đã nhìn thấy vị tỳ khưu ni ―(như trên)― đã nhìn thấy vị ni tu tập sự ―(như trên)― đã nhìn thấy vị sa di ―(như trên)― đã nhìn thấy vị sa di ni đang đi trong hư không, y hai lớp[15] của vị ni ấy bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, bình bát cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, dây thắt lưng cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa, thân hình cũng bị cháy đỏ, cháy rực, có ngọn lửa; vị ni ấy đã rên rỉ khổ sở. Này đại đức, ta đây đã khởi ý điều này: “Thật là kỳ diệu! Thật là phi thường! Cũng có chúng sanh lại trở thành như thế này! Cũng có Dạ-xoa lại trở thành như thế này! Cũng có ngạ quỷ lại trở thành như thế này! Cũng có sự hình thành bản ngã lại là như thế này!” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.”
Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với mắt thấy như thật! Này các tỳ khưu, quả thật các Thinh Văn sống với trí biết như thật! Bởi vì là Thinh Văn thì sẽ biết, hoặc sẽ thấy, hoặc sẽ chứng kiến điều như thế. Này các tỳ khưu, trước đây Ta đã thấy vị sa di ni ấy, tuy nhiên Ta đã không nói ra. Và nếu Ta nói ra thì những kẻ khác có thể không tin Ta, những ai không tin Ta thì việc ấy sẽ đem lại cho chúng sự bất hạnh khổ đau lâu dài. Này các tỳ khưu, vị sa di ni ấy đã là ác sa di ni ở vào thời Giáo Pháp của đức Chánh Đẳng Giác Kassapa. Vị ni ấy, do quả của nghiệp ấy, đã bị nung nấu trong địa ngục nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhiều trăm ngàn năm, và do quả dư sót của chính nghiệp ấy đã gánh chịu sự hình thành bản ngã có hình thức như thế. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (53-56)
Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: – “Này các đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ?’ Vả lại dòng sông Tapodā này là nóng bỏng và trôi chảy. Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. “Này các tỳ khưu, dòng sông Tapodā chảy ra từ cái hồ có nước trong, có nước mát, có nước ngọt, có nước thanh khiết, có chỗ nghỉ chân xinh đẹp, đáng thưởng ngoạn, có nhiều cá và rùa, có những đóa hoa sen tròn nở rộ. Này các tỳ khưu, tuy nhiên dòng sông Tapodā này đi qua giữa hai đại địa ngục, vì thế dòng sông Tapodā này trở nên nóng bỏng và trôi chảy. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (57)
Vào lúc bấy giờ, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, trong lúc giao chiến với các vị Licchavi, đã bị đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: “Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.” Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: – “Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: ‘Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác.’” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Mahāmoggallāna lại phát biểu như vầy: ‘Này các đại đức, đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Và trong trận chiến có sự vui mừng loan truyền rằng: Các vị Licchavi đã bị đức vua đánh tan tác’? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, trước tiên đức vua đã bị các vị Licchavi đánh tan tác. Sau đó, khi đã gom góp lại đội binh hậu bị, đức vua đã đánh bại các vị Licchavi. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (58)
Sau đó, đại đức Mahāmoggallāna đã nói với các tỳ khưu rằng: – “Này các đại đức, được thể nhập định bất thối, tôi đây ở nơi bờ sông Sappinikā đã nghe tiếng động của các con rồng đang hụp xuống rồi trồi lên và gầm lên tiếng rống.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Làm sao đại đức Mahāmoggallāna, được thể nhập định bất thối, lại có thể nghe tiếng động? Đại đức Mahāmoggallāna khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, có loại định này và vị ấy chưa được thuần thục lắm. Này các tỳ khưu, Moggallāna đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Moggallāna không phạm tội.” (59)
Khi ấy, đại đức Sobhita đã nói với các tỳ khưu rằng: – “Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp.” Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao đại đức Sobhita lại nói như vầy: ‘Này các đại đức, tôi nhớ được năm trăm kiếp’? Đại đức Sobhita khoác lác về pháp thượng nhân.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, Sobhita đã sống kiếp sống ấy, và kiếp sống ấy chính là một kiếp sống của Sobhita. Này các tỳ khưu, Sobhita đã nói sự thật. Này các tỳ khưu, Sobhita không phạm tội.” (60)
Điều pārājika thứ tư được đầy đủ.
–ooOoo–
Bạch chư đại đức, bốn điều pārājika đã được đọc tụng xong. Vị tỳ khưu vi phạm điều nọ hoặc điều kia thuộc về các điều này thì không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu,[16] trước đây như thế nào thì sau này là như vậy;[17] (vị ấy) là vị phạm tội pārājika không được cộng trú.
Trong các điều ấy, tôi hỏi các đại đức rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ nhì, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Đến lần thứ ba, tôi hỏi rằng: Chắc hẳn các vị được thanh tịnh trong vấn đề này? Các đại đức ở đây được thanh tịnh nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.
Dứt Điều Học Pārājika.
–ooOoo–
TÓM LƯỢC CHƯƠNG NÀY
Bốn điều pārājika là: việc đôi lứa, vật không được cho, mạng người, pháp thượng nhân. Sự việc nên được phân tích, không còn sự nghi vấn.
Dứt Chương Pārājika.
–ooOoo–
[1] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Assāso ti bahi nikkhamanavāto. Passāso ti anto pavisanavāto = Hơi thở ra là gió đi ra bên ngoài. Hơi thở vào là gió đi vào bên trong” (VinA. ii, 408). Như thế assasati là thở ra, passasati là thở vào. Nếu hiểu như vậy thì phương pháp Ānāpānassati hay “Niệm hơi thở” nên được trình bày và tu tập theo thứ tự hơi thở ra trước rồi mới đến hơi thở vào.
[2] Trong bốn mệnh đề đầu, động từ được sử dụng là pajānāti (biết rõ) và có liên từ “vā” (hay là, hoặc là) xen vào giữa. Từ mệnh đề thứ năm trở đi, động từ là sikkhati (thực tập, thực hành, học tập).
[3] Theo lời giải thích của ngài Buddhaghosa, sabbakāya nên được hiểu là phần đầu, phần giữa, và phần cuối của toàn bộ hơi thở ra mỗi khi thở ra, hoặc toàn bộ hơi thở vào mỗi khi thở vào (VinA. ii, 411)
[4] A, B, C, D được thêm vào cho dễ hiểu dựa theo Chú Giải (VinA. ii, 448-450).
[5] Là việc bị mổ banh bụng ra bởi con dao bén của kẻ giết trâu bò (ND).
[6] Là việc nói lời ca ngợi lẫn nhau về pháp thượng nhân đến các người tại gia (ND).
[7] Kinh Pháp Cú, câu 307.
[8] Kinh Pháp Cú, câu 308.
[9] Vô phiền não giải thoát (suññato vimokkho) là nội tâm không còn tham sân si, vô tướng giải thoát (animitto vimokkho) là nội tâm không còn các biểu hiện của tham sân si, vô nguyện giải thoát (appaṇihito vimokkho) là không còn trạng thái mong mỏi tham sân si (VinA. ii, 492).
[10] Vị ấy vì chưa đề cập rõ ràng bản thân là A-la-hán (ahan ti avuttatā) nên không phạm tội pārājika(VinA. ii, 503).
[11] Câu chuyện này được lập lại y như câu chuyện (16) ở trên.
[12] Ngài Buddhaghosa giải thích các chim kên kên, chim quạ, chim ưng này là các Dạ-xoa có dạng chim, “yakkhagijjhā yakkhakākā yakkhakulalā” (VinA. ii, 507).
[13] Ngài Buddhaghosa giải thích về người không có lớp da bao bọc là do việc người này đã giết các con dê rồi lột da nên bị quả báu không có lớp da bao bọc (VinA. ii, 509).
[14] Người này tuy là quan xử án nhưng nhận hối lộ ở nơi kín đáo rồi xử án thiên lệch nên bị trả quả phải phơi bày vật kín ra (VinA. ii, 510).
[15] Có thể đây là một lầm lẫn trong lúc gom các đoạn văn trùng lặp lại với nhau vì các vị ni tu tập sự, sa di, sa di ni không có y hai lớp (saṅghāṭi). Chỉ tỳ khưu và tỳ khưu ni mới có y này.
[16] Không đạt được sự cộng trú cùng với các vị tỳ khưu nghĩa là vị ấy không còn được tham dự các lễ Uposatha (lễ Bố Tát), lễ Pavāraṇā (lễ Tự Tứ), việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, và các loại hành sự của hội chúng (VinA. ii, 516).
[17] Trước đây như thế nào thì sau này là như vậy (yathā pure tathā pacchā) nghĩa là trước đây còn tại gia chưa tu lên bậc trên sự cách biệt đối với các vị tỳ khưu như thế nào, bây giờ sau khi phạm tội pārājika thì phải theo đúng như thế ấy (VinA. ii, 516).
Đọc sách ebook: PHÂN TÍCH GIỚI TỲ KHƯU I
–ooOoo–
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)