Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw (1846-1923)
Ngài Ledi Sayadaw
Mahathera, Agga Maha Pandita, D.Litt.
(1846-1923)
(As published in ‘The Manual of Buddhism’, Union Buddha Sasana Council, Burma, 1965 )
(Đã được xuất bản trong ‘The Manual of Buddhism’, Hội đồng Phật giáo Liên minh, Miến Điện, năm 1965)
Known to scholars of many countries, the Venerable Ledi Sayadaw, Aggamahapandita, D.Litt., was perhaps the outstanding. Buddhist figure of this age. With the increase in interest in Western lands, there is a great demand for his Buddhist Discourses and writings which are now being translated and reproduced in “The Light of the Dhamma.”
Được học giả nhiều nước biết đến, Thượng tọa Ledi Sayadaw, Aggamahapandita, D.Litt., có lẽ là người xuất chúng. Nhân vật Phật giáo của thời đại này. Với sự quan tâm nhiều hơn từ các nước phương Tây, nhu cầu lớn về các bài giảng và bài viết Phật pháp của ông đang được phiên dịch và tái bản trong “The Light of the Dhamma.”
Bhikkhu Nyana who was later known as Ledi Sayadaw was born on Tuesday, the 13th Waxing of Nattaw, 1208 Burmese Era (1846 C.E.) at Saing-pyin Village, Dipeyin Township, Shwebo District. His parents were U Tun Tha and Daw Kyone. Early in life he was ordained a samanera and at the age of 20 a Bhikkhu, under the patronage of Salin Sayadaw U Pandicca. He received his monastic education under various teachers and later was trained in Buddhist literature by the Venerable San-kyaung Sayadaw, Sudassana Dhaja Atuladhipati Siripavara Mahadhamma Rajadhi-raja-guru of Mandalay.
Tỳ khưu Nyana, người sau này được biết đến với cái tên Ledi Sayadaw, sinh vào thứ Ba, năm thứ 13 của Nattaw, 1208 Kỷ nguyên Miến Điện (1846 CN) tại làng Saing-pyin, Thị trấn Dipeyin, quận Shwebo. Cha mẹ ngài là U Tun Tha và Daw Kyone. Đầu đời, ngài thọ giới Sa-di-ni và là Tỳ kheo năm 20 tuổi, dưới sự bảo trợ của Salin Sayadaw U Pandicca. Ông được giáo dục xuất gia với nhiều vị thầy khác nhau và sau đó được Thượng tọa San-kyaung Sayadaw, Sudassana Dhaja Atuladhipati Siripavara Mahadhamma Rajadhi-raja-guru của Mandalay đào tạo về văn hóa Phật giáo.
He was a bright student. It was said of him:—”About 2000 students attended the the lectures delivered daily by the Venerable San-kyaung Sayadaw. One day the Venerable Sayadaw set in Pali 20 questions on Parami (Perfections) and asked all the students to answer them. None of them except Bhikkhu Nyana could answer those questions satisfactorily.” He collected all these answers and when he attained 14 Vassa and while he was still in San-kyaung monastery, he published his first book, “Parami Dipani”. ((Manual of Perfections).
Ông là một sinh viên sáng giá. Người ta đã nói về ông:-“Khoảng 2000 sinh viên đã tham dự các bài giảng do tôn giả San-kyaung Sayadaw thuyết giảng hàng ngày. Một hôm, tôn giả Saydaw đặt bằng tiếng Pali 20 câu hỏi về Parami (Sự hoàn hảo) và yêu cầu tất cả các sinh viên trả lời chúng. Không ai trong số họ ngoại trừ Tỳ khưu Nyana có thể trả lời các câu hỏi đó một cách thỏa đáng. Ông ấy đã thu thập tất cả các câu trả lời này và khi ông ấy đạt tới 14 Vassa và trong lúc vẫn còn ở tu viện San-kyaung, ông ấy đã xuất bản quyển sách đầu tiên của mình, “Parami Dipani”. (Hướng dẫn về sự hoàn hảo).
During the reign of King Theebaw he became a Pali lecturer at Maha Jotikarama monastery in Mandalay. A year after the capture of King Theebaw, i.e. in 1887 C.E, he removed to a place to the north of Monywa town, where he established a monastery under the name of Ledi-tawya Monastery. He accepted many bhikkhus-students from various parts of Burma and imparted Buddhist education to them. In 1897 C.E., he wrote Paramattha Dipani (Manual of Ultimate Truths) in Pali.
Dưới thời trị vì của Vua Theebaw ông ấy đã trở thành giảng viên Pali tại tu viện Maha Jotikarama ở Mandalay. Một năm sau khi Vua Theebaw bị bắt, tức là vào năm 1887 CN, ông đã chuyển đến một nơi ở phía Bắc thị trấn Monywa, nơi ông đã thành lập một tu viện dưới tên Tu viện Ledi-tawya. Ngài đã thu nhận nhiều Tỳ-kheo-ni từ nhiều nơi ở Miến Điện và truyền thụ giáo dục Phật giáo cho họ. Vào năm 1897 CN, ngài đã viết Paramattha Dipani (Hướng dẫn về những hiện thực sau cùng) bằng tiếng Pali.
Later, he toured in many parts of Burma for the purpose of propagating the Buddha Dhamma. In towns and village he visited he delivered various Discourses on the Dhamma and established Abhidhamma classes and Meditation Centres. He composed Abhidhamma rhymes or Abhidhamma Sankhitta and taught them to his Abhidhamma classes. In some of the principal towns he spent a Vassa imparting Abhidhamma and Vinaya education to the lay devotees. Some of the Ledi Meditation Centres are still existing and still famous. During his itinerary he wrote many essays, letters, poems and manuals in Burmese. He has written more than 70 manuals, of which eight have been translated into English and published in “The Light of the Dhamma”. Vipassana Dipani (Manual of Insight) was translated by his disciple Sayadaw U Nyana, Pathamagyaw Patthanuddesa Dipani (A concise exposition of the Buddhist Philosophy of Relations) was originally written in Pali by the late Ledi Sayadaw and translated by Sayadaw U Nyana. Niyama Dipani (Manual of cosmic Order) was translated by U Nyana and Dr. Barua and edited by Mrs. Rhys Davids. Sammaditthi Dipani (Manual of Right Understanding) and Catusacca Dipani (Manual of the Four Noble Truths) were translated by the Editors of “The Light of the Dhamma.” Bodhipakkhiya Dipani (Manual of the Factors Leading to Enlightenment) was translated by U Sein Nyo Tun, I.C.S. (Retd.), and Magganga Dipani (Manual of the constituents of the Noble Path) was translated by U Saw Tun Teik. B.A. B.L., and revised and edited by the English Editorial Board of the Union Buddha Sasana Council.
Sau đó, ông đã đi rong ruổi nhiều nơi ở Miến Điện với mục đích là hoằng dương Phật pháp. Tại các thị trấn và làng mạc ông đã ghé thăm, ông đã giảng nhiều khóa học về Giáo pháp và thành lập các lớp học Abhidhamma (Vi diệu pháp) và các trung tâm Thiền định. Ông sáng tác các bài thơ Abhidihamma hoặc Abhidhamma Sankhitta và dạy chúng cho các lớp Abhidihamma của mình. Tại một số thành phố chính, ông đã dành một buổi Vassa để truyền thụ giáo dục Abhidihamama và Vinaya cho các phật tử tại gia. Một số Trung tâm thiền Ledi vẫn còn tồn tại và vẫn nổi tiếng. Trong hành trình của mình, ông đã viết nhiều bài tiểu luận, thư, thơ và sách hướng dẫn bằng tiếng Miến Điện.
Ông đã viết hơn 70 sách hướng dẫn, trong đó có 8 quyển đã được dịch sang tiếng Anh và xuất bản trong quyển ‘The Light of the Dhamma’. Vipassana Dipani (Hướng dẫn sử dụng tuệ giác) do đệ tử Sayadaw U Nyana dịch, Pathamagyaw Patthanuddesa Dipani (Bản trình bày ngắn gọn về triết lý mối quan hệ của Phật giáo) ban đầu được viết bằng tiếng Pali bởi Ledi Sayadaw quá cố và được dịch lại bởi Sayadaw U Nyana. Niyama Dipani (Hướng dẫn về trật tự vũ trụ) được dịch bởi U Nyana and Dr. Barua và được hiệu đính bởi bà Rhys Davids. Sammaditthi Dipani (Sách hướng dẫn Chánh kiến) và Catusacca Dipani (Sách Hướng Dẫn Về Bốn Sự Thật Cao Quý) đã được dịch bởi các biên tập viên của quyển “The Light of the Dhamma. Bodhipakkhiya Dipani (Sách hướng dẫn các yếu tố dẫn đến sự giác ngộ) được dịch bởi U Sein Nyo Tun, I.C.S. (Retd.), và Magganga Dipani (Sách hướng dẫn các yếu tố tạo nên Con Đường Cao Quý) được dịch bởi U Saw Tun Teik. B.A. B.L., và được Ban biên tập tiếng Anh của Union Buddha Sasana Council hiệu đính và chỉnh sửa.
He was awarded the title of Aggamaha pandita by the Government of India in 1911 C.E. Later, the University of Rangoon conferred on him the degree of D. Litt. (Honoris Causa). In the later years he settled down at Pyinmana where he died in 1923 C.E. at the ripe age of 77.
Ông đã được Chính phủ Ấn Độ trao tặng danh hiệu Aggamaha pandita vào năm 1911 CN. Sau đó, trường Đại học Rangoon đã phong tặng Ông bằng D. Litt. (Honoris Causa). Trong những năm sau đó, ông định cư ở Pyinmana, nơi ông qua đời vào năm 1923 CN ở tuổi 77.