Phân Tích Đạo Ii – Paṭisambhidāmaggo – Xii – Giảng Về Minh Sát
IX. GIẢNG VỀ MINH SÁT
Tôi đã được nghe như vầy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại tu viện của ông Anāthapiṇḍika, trong khu rừng (của thái tử) Jeta, ở thành Sāvatthī. Chính ở tại nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các vị tỳ khưu rằng: “Này các tỳ khưu.” “Thưa ngài,” các vị tỳ khưu ấy đã đáp lại đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã nói điều này:
– Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét bất cứ hành nào là thường, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này không được biết đến. Không có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này không được biết đến. Không đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này không được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét tất cả các hành là vô thường, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này được biết đến. Có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này được biết đến. Đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét bất cứ hành nào là lạc, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này không được biết đến. Không có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này không được biết đến. Không đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này không được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét tất cả các hành là khổ não, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này được biết đến. Có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này được biết đến. Đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét bất cứ pháp nào là ngã, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này không được biết đến. Không có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này không được biết đến. Không đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này không được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét tất cả các pháp là vô ngã, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này được biết đến. Có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này được biết đến. Đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét Niết Bàn là khổ não, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này không được biết đến. Không có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này không được biết đến. Không đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này không được biết đến.
Này các tỳ khưu, quả thật vị tỳ khưu ấy, trong lúc đang xem xét Niết Bàn là lạc, sẽ có được sự nhẫn nại phù hợp; sự kiện này được biết đến. Có được sự nhẫn nại phù hợp, (vị ấy) sẽ đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn; sự kiện này được biết đến. Đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn, (vị ấy) sẽ tác chứng Quả Nhập Lưu, hoặc Quả Nhất Lai, hoặc Quả Bất Lai, hoặc Quả A-la-hán; sự kiện này được biết đến.
(Vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp với bao nhiêu biểu hiện? đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn với bao nhiêu biểu hiện?
(Vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp với bốn mươi biểu hiện, đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn với bốn mươi biểu hiện.
(Vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp với bốn mươi biểu hiện gì? đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn với bốn mươi biểu hiện gì?
(Vị ấy nhận thấy) năm uẩn là vô thường, là khổ não, là ốm đau, là mụt nhọt, là mũi tên, là bất hạnh, là tật bệnh, là xa lạ, là tiêu hoại, là tai ương, là tai họa, là kinh hãi, là sự đe dọa, là lay chuyển, là mỏng manh, là không bền vững, là không sự bảo vệ, là không phải chỗ ngụ, là không sự nương tựa, là trống rỗng, là hão huyền, là không, là vô ngã, là tai hại, là pháp chuyển biến, là không có thực chất, là cội nguồn của bất hạnh, là kẻ hành quyết, là không hiện hữu, là có lậu hoặc, là tạo tác, là vật chất của Ma Vương, là pháp sanh ra, là pháp già, là pháp bệnh, là pháp tử, là pháp sầu muộn, là pháp than vãn, là pháp thất vọng, là pháp phiền não.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là vô thường, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là thường hằng, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là khổ não, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là lạc, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là ốm đau, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận 5 uẩn là vô bệnh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là mụt nhọt, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không mụn nhọt, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là mũi tên, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không phải mũi tên, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là bất hạnh, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không bất hạnh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tật bệnh, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không tật bệnh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là xa lạ, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn không phải là duyên của người khác, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tiêu hoại, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là pháp không tiêu hoại, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tai ương, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không tai ương, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tai họa, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không tai họa, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là kinh hãi, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không kinh hãi, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là sự đe dọa, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là sự không đe dọa, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là lay chuyển, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không lay chuyển, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là mỏng manh, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không mỏng manh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không bền vững, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là bền vững, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không sự bảo vệ, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là sự bảo vệ, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không phải chỗ ngụ, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là chỗ ngụ, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không sự nương tựa, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là sự nương tựa, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là trống rỗng, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không trống rỗng, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là hão huyền, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không hão huyền, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là tối thượng về không, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là vô ngã, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là chân lý tuyệt đối, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tai hại, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không tai hại, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp chuyển biến, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là pháp không chuyển biến, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không có thực chất, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là có thực chất, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là cội nguồn của bất hạnh, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không phải cội nguồn của bất hạnh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là kẻ hành quyết, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không phải kẻ hành quyết, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là không hiện hữu, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không phải phi hữu, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là có lậu hoặc, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không có lậu hoặc, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là tạo tác, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không tạo tác, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là vật chất của Ma Vương, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không vật chất, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp sanh ra, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là vô sanh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp già, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không già, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp bệnh, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không bệnh, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp tử, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là bất tử, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp sầu muộn, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không sầu muộn, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp than vãn, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không than vãn, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp thất vọng, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không thất vọng, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
Trong khi nhận thấy năm uẩn là pháp phiền não, (vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp. Trong khi nhận thấy rằng: ‘Sự diệt tận năm uẩn là không phiền não, là Niết Bàn,’ (vị ấy) đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn.
‘Là vô thường,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là khổ não,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là ốm đau,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là mụt nhọt,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là mũi tên,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là bất hạnh,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là tật bệnh,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là sự xa lạ,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là tiêu hoại,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là tai ương,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là tai họa,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là kinh hãi,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là sự đe dọa,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là lay chuyển,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là mỏng manh,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là không bền vững,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là không sự bảo vệ,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là không phải chỗ ngụ,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là không sự nương tựa,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là trống rỗng,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là hão huyền,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là không,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là vô ngã,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là tai hại,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp chuyển biến,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là không có thực chất,’ như thế là sự quán xét về vô ngã.
‘Là cội nguồn bất hạnh,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là kẻ hành quyết,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là không hiện hữu,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là có lậu hoặc,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là tạo tác,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là vật chất Ma Vương,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là sanh ra,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp già,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp bệnh,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp tử,’ như thế là sự quán xét về vô thường.
‘Là pháp sầu muộn,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp than vãn,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp thất vọng,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
‘Là pháp phiền não,’ như thế là sự quán xét về khổ não.
(Vị ấy) thành đạt sự nhẫn nại phù hợp với bốn mươi biểu hiện này, đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn với bốn mươi biểu hiện này.
Đối với vị thành đạt sự nhẫn nại phù hợp với bốn mươi biểu hiện này, đối với vị đạt đến sự xác định về tính chất đúng đắn với bốn mươi biểu hiện này, có bao nhiêu sự quán xét về vô thường? có bao nhiêu sự quán xét về khổ não? có bao nhiêu sự quán xét về vô ngã?
Hai lăm quán xét về vô ngã, năm mươi quán xét về vô thường, và có đến một trăm hai lăm nói về các khổ não.[3]
Phần Giảng về Minh Sát được đầy đủ.
–ooOoo–