Kinh Nghiệm Thiền Quán – Thực Tập Trong Đời Sống Hằng Ngày: Tâm Từ
Kinh Nghiệm Thiền Quán
Thực tập trong đời sống hằng ngày: Tâm từ
Trong quyển “ Kẻ hành quyết tình yêu Stanford,”, nhà phân tâm học nổi tiếng tại Stanford, Irwin Yalom đã viết: “Tôi không ưa làm việc với những bệnh nhân đang yêu. Có lẽ vì lòng ghen tức. Tôi, cũng thế, khao khát sự say mê. Có lẽ vì tình yêu và phân tâm học, tự cơ bản, chúng đã xung khắc với nhau rồi. Một nhà tâm lý trị liệu giỏi phải biết chiến đấu với bóng tối để tìm ánh sáng, trong khi ấy, tình yêu lãng mạn phải được nuôi dưỡng bằng sự bí ẩn và sụp đổ dưới sự xét soi. Vì vậy mà tôi ghét làm một kẻ hành quyết tình yêu.”
Có thứ tình yêu nào không sụp đổ dưới sự quan sát, mà lại còn tương hợp và làm tăng thêm sự ngời sáng của nó nữa? Có gì khác biệt giữa sự đam mê khi ta rơi vào tình yêu và cái phẩm chất khi ta đứng vững trong tình yêu hay không? Sự khác biệt mà tôi muốn nói đó, trong tiếng Pali gọi là metta, tức là tâm từ.
Metta, hay tâm từ, là lòng vị tha muốn cho mọi loài được hạnh phúc, trong đó có cả mình và người khác. Tâm từ làm tươi mát tâm trí của ta bằng sự nhân hậu. Trí của ta sẽ trở nên uyển chuyển và tâm ta trở nên nhân ái, khi lòng từ thúc đẩy ta đi tìm hạnh phúc và an lạc cho tất cả. Lòng từ ấy được biểu lộ trong ta bằng một sự mong ước đơn sơ “Cầu chúc cho mọi người được an vui.”
Khi tu tập tâm từ, ta sẽ bớt phản ứng và biết giữ cho mình được cởi mở hơn. Sự mềm dịu và uyển chuyển của tình thương sẽ trở thành nền tảng của trí tuệ. Ta sẽ thấy được rõ ràng những việc nào là tốt lành trong cuộc đời mình, và những gì là nguy hại. Nhờ tuệ giác phân biệt này, ta sẽ có những lựa chọn sáng suốt trong cuộc sống, và chúng sẽ đưa ta đến những hạnh phúc và tình yêu rộng lớn.
Chánh niệm và tâm từ có một sự liên hệ rất chặt chẽ, chánh niệm sẽ tạo nên một cánh đồng tươi mát cho tâm từ phát triển. Lúc đầu thì bao giờ ta cũng cần phải dụng công thu thúc tâm ý mình, gom góp lại những tư tưởng bị tản mác. Trong giai đoạn đầu tu tập chánh niệm, tâm ta có thể bị lơ đãng hoặc gặp nhiều khó khăn. Nhưng dần dần chánh niệm sẽ biểu lộ sự huyền diệu của nó. Ta bắt đầu biết quan sát, biết đem mình trở lại từ nơi thất niệm, và từ đó tâm ta sẽ có thể chấp nhận dễ dàng hơn, bớt phản ứng và bớt phê phán. Ta sẽ ít còn bị hoàn toàn lôi cuốn theo những tư tưởng lan man ấy nữa. Một chánh niệm êm dịu và từ tốn cho phép tâm và trí của ta được trở nên thư thái và cởi mở.
Sự bừng mở này đôi khi lại khơi dậy một dòng ký ức và hình ảnh trong quá khứ trôi chảy về. Lúc đầu chúng là những sự kiện trong một quá khứ gần, và rồi sẽ là những chuyện xa xưa mà ta ngỡ rằng đã quên đi từ lâu. Một kho chứa mênh mông của những ấn tượng và phản ứng xưa cũ sẽ hiển lộ ra. Chúng ta có thể nghĩ đến những người, hoặc nhớ lại những sự kiện mà mình không hề để ý gì đến trong mấy năm qua. Nhưng nhờ sự tu tập, với năng lực của một tâm tĩnh lặng và an định, ta sẽ kinh nghiệm được những tư tưởng và cảm thọ này một cách rõ ràng và trực tiếp. Và nhờ vậy, trong tâm thức, ta sẽ có thể nối liền lại được với những người đã từng có mặt trong cuộc đời mình.
Lúc đầu, những ký ức này có thể sẽ mang lại một số phản ứng và sự phê phán xưa cũ. Nhưng khi tâm ta được an tĩnh hơn, ta sẽ có thể nhớ lại chúng mà không còn phải giữ thế thủ hoặc phóng đại nữa. Sự tĩnh lặng trong tâm sẽ mang lại cho ta một sự cởi mở và mềm dịu rất sâu sắc. Và khi ta có thể nhìn thấy hết những khía cạnh khác nhau của con người và hoàn cảnh, ta sẽ biết tha thứ dễ dàng hơn. Trong không gian mênh mông và rộng mở của chánh niệm, tâm từ và tâm bi sẽ phát sinh một cách thật tự nhiên.
Tâm từ không biết phân biệt. Một khi tình yêu bị pha trộn với dục vọng, nó sẽ sinh ra một thứ năng lượng của ham muốn, và vì vậy mà tình yêu lúc nào cũng bị giới hạn. Chúng ta có thể ham muốn một người, hai người, hoặc có thể ba người, nhưng tôi nghĩ không ai có thể ham muốn hết tất cả mọi người trên thế giới này được hết. Trái lại với dục vọng, tâm từ có khả năng ôm trùm tất cả, không có người nào nằm ngoài vòng tay của nó. Những ai có tâm từ lúc nào cũng ước mong: “Cầu cho mọi người được an lạc, được khỏe mạnh, sống trong an ổn và luôn được tự do.”
Vì tâm từ xuất phát từ sự rộng lượng của tâm mình, nó không lệ thuộc vào điều kiện, hoặc bắt buộc người khác phải theo ý mình, nên tâm từ không thể biến thành một ác ý được. Có câu chuyện về thiền sư Ryokan, một nhà tu ẩn dật, và cũng là một đại thi sĩ Nhật Bản vào thế kỷ 18, diễn đạt được tâm vô phân biệt này. Một hôm có tên trộm lẻn vào căn lều tranh nghèo nàn của ông và đánh cắp hết những đồ vật, mà chúng chẳng có bao nhiêu. Khi Ryokan trở về nhà thấy việc xảy ra, ông có làm một bài thơ hài cú như sau:
Tên trộm,
bỏ quên lại rồi,
Ánh trăng
bên cửa sổ.
Giả sử gặp một hoàn cảnh tương tự, chúng ta sẽ đối xử ra sao? Sức mạnh của Phật pháp bắt nguồn từ việc thường xuyên tự nhắc nhở mình rằng, tình thương và trí tuệ không phải là những đức tính để ta chiêm ngưởng nơi người khác, mà phải biết tự khai triển chúng ở nơi mình. Thiền sư Thích Nhất Hạnh viết: “Tu Phật là một phương pháp khôn ngoan để vui hưởng cuộc sống này. Hạnh phúc đang có sẵn. Bạn hãy tiếp xúc với nó đi.”
Làm cách nào để ta có thể tiếp xúc được với tình thương? Khi ta chú tâm vào những đức tính tốt của con người, trong đó có ta và người khác, tâm từ sẽ phát sinh. Chúng ta, mỗi người là một món hàng gồm những phẩm chất riêng biệt. Khi ta không nhìn thấy những điều tốt nơi một người, mà chỉ để ý đến những gì mình không ưa thích, thì những tâm giận hờn, phê phán, ghét bỏ và có khi là thù hận, đối với người ấy sẽ có thể dễ dàng sinh lên. Không phải ta tự dối gạt mình rằng những tính xấu không có mặt, nhưng ta vẫn có thể nhìn và hiểu chúng mà không bị dính mắc vào những tính bất thiện ấy. Tất cả chúng ta, ai cũng có ít nhất là một đức tính tốt. Và khi ta nhìn thấy được phẩm chất tốt này nơi người khác, một cảm giác thương mến sẽ tự nhiên phát sinh lên. Lúc mới đầu thì phương pháp đối xử này có vẻ máy móc và giả tạo, nhưng sau một thời gian tâm từ sẽ trở thành một lối sống tự nhiên.
Tâm từ cũng có thể phát sinh từ một cảm giác về ân nghĩa. Trong một bài luận về tình người, Đức Phật nói rằng, trong cuộc đời này có hai hạng người rất hiếm: một là hạng người giúp đỡ kẻ khác, và hai là hạng người biết nhớ ơn. Chúng ta ai mà không từng nhận sự giúp đỡ của người khác, bằng cách này hay cách khác. Hãy suy ngẫm về những điều tốt mà người khác đã làm cho mình, vì nó sẽ nuôi dưỡng sự biết ơn và lòng thương yêu chân thật trong ta.
Còn một phương pháp khác nữa để phát triển tâm từ là thiền quán về tâm từ. Phương pháp thiền quán này rất đơn giản. Ngồi cho thoải mái, nghĩ đến một người nào mà bạn thương yêu nhiều, và niệm thầm trong tâm những câu diễn đạt sự thương mến của bạn đến cho người ấy. Thí dụ, bạn có thể lặp đi lặp lại những câu này “Chúc cho người được hạnh phúc,” “Chúc cho người được khỏe mạnh,” “Chúc cho người được bình an,” “Chúc cho người được tự do.” Hãy để tâm ta trụ giây lát trong ý nghĩa và cảm giác của mỗi lời cầu mong ấy, khi ta giữ hình ảnh của người đó trong tâm mình. Rồi sau đó, ta hãy tập sang câu kế tiếp.
Nếu bạn tiếp tục thực tập phương pháp từ quán này, sau một thời gian tâm từ sẽ tăng trưởng mạnh mẽ. Rồi bạn sẽ có thể đem tâm ấy ban rải đến cho một người bạn thân, một người quen sơ, và ngay cả với người mà bạn đang trải qua nhiều khó khăn, mà ta gọi là “kẻ thù”. Hãy kiên nhẫn trong sự tu tập của mình. Dần dần rồi ta sẽ trau luyện, chuyển hóa được hết những tập quán của tâm mình. Bạn có thể chấm dứt phương pháp từ quán này bằng cách phóng rải tình thương của mình đến cho mọi chúng sinh: “Cầu mong cho tất cả mọi loài được hạnh phúc, được khỏe mạnh, sống trong bình an và được tự do.”
Tâm từ là một năng lực linh động và chuyển hóa, nó có khả năng thay đổi trọn vẹn kinh nghiệm sống của ta. Bạn có thể thực tập tâm từ trong sự tiếp xúc hằng ngày với người khác. Chẳng hạn như khi bạn đi dạo trên đường, hãy chú ý đến sự khác biệt giữa một trạng thái cô lập khi ta mải mê theo công việc riêng tư trong đầu, và một cảm giác nối liền với tất cả khi ta niệm thầm những câu từ quán ấy. Một sự chuyển hóa tức thời sẽ xảy ra khi ta đem vùng năng lượng của tâm từ ra trùm phủ không gian của đường phố và những người trong đó. Bạn có thể thực tập tâm từ với những người gần gũi bạn nhất. Và bạn cũng có thể đem tâm từ ra ban phát cho mọi chúng sinh trên thế giới này.