About Achaan Maha Boowa
MAIN CONTENT
Thiền sư Achaan Maha Boowa |
Thiền sư Achaan Maha Boowa vừa là một thiền sư vừa là một vị trụ trì nỗi tiếng của phái đầu đà thuộc miền đông bắc Thái Lan. Sau khi học căn bản Phật pháp trong nhiều năm, ngài đã thông hiểu ngôn ngữ kinh điển Pàli, trước khi bước vào con đường tu tập thiền. Ngài Achaan Maha Boowa đã trải qua nhiều năm tu tập thiền như là một vị tỳ khưu đầu đà, và người thầy có một ảnh hưởng lớn lao đối với ngài là thiền sư người Lào, Achaan Mun. Achaan Mun là vị sư đầu đà nổi tiếng Thái-Lào trong thế kỷ này, được nổi tiếng về sự uyên thâm trong thiền quán và thiền định, về những năng lực lớn lao của ngài lẫn phương pháp tu tập nghiêm khắc. Người ta nói rằng khi Achaan Maha Boowa còn là một học tăng, đã thực hành thiền nhiều năm và đã thông hiểu một số thiền định Phật giáo, và dành nhiều thời gian hành thiền có an lạc trước khi đến với ngài Achaan Mun. Ðiều tự chứng nghiệm này là một thành tựu hoàn hảo. Trong lúc gặp ngài Achaan Mun, vị thiền sư này đã dạy cho ngài một bài giảng rất thâm sâu về sự khác biêt giữa hạnh phúc và tuệ giác và đưa ngài ra khỏi rừng để tu tập thêm. Trong nhiều năm theo học phương pháp thâm sâu này, ngài Achaan Maha Boowa đã có thể nhập vào những trạng thái thiền định đầy hạnh phúc và cao cả hơn. Nhưng rồi cuối cùng một lần nữa, ngài đã thông hiểu được chúng, đó là trí tuệ và tuệ giác.
Ngài Achaan Maha Boowa đặc biệt chú trọng đến việc phát triển sự tập trung vững chắc và mạnh mẽ trong lúc tu tập. Ngài là người tiên phong trong đề mục phát sinh trí tuệ. Trong bài thuyết giảng đặc biệt này, ngài cũng dạy cho chúng ta làm cách này để có thể sử dụng tuệ giác trong việc tu tập và quán chiếu thân tâm, để bổ sung trong việc phát huy sự tập trung (thiền định) và vắng lặng. Và rồi sự tập trung này sẽ dẫn đến tuệ giác sâu sắc hơn. Dù thế, ngài Achaan Maha Boowa cũng thảo luận về ba phần cơ bản của con đường trí tuệ – giới, định, tuệ – ngài giải thích rằng những phần này không cần thiết phải tu tập theo thứ tự. Thay vào đó, việc tu tập không cần phát huy thiền định (tập trung) từng giai đoạn nhưng liên tục thực hành giới, định, tuệ để đối phó với những phiền não khi chúng phát sinh.
Khi bắt đầu tu tập, thiền sư Achaan Maha Boowa khuyến khích việc sử dụng những lời cầu nguyện hoặc các câu thần chú (mạn trà) để phát huy sự vắng lặng lúc ban đầu trong lúc đơn độc hoặc trong lúc quán tưởng. Rồi khi hành giả đạt được sự vắng lặng, hành giả được hướng dẫn dùng sự tu tập này để quán chiếu bản thân và những phần của thân thể. Sau đó trực tiếp quán chiếu bản chất của tâm và tìm hiểu sự vô minh và sự hiểu sai là thế nào đã dẫn dắt đến tà kiến về ngã và sự đau khổ lớn trong vòng sanh tử luân hồi. Ngài Achaan Maha Boowa vạch rõ một số phương pháp có thể phát huy thiền định, ngài đặc biệt quan tâm đến những hình ảnh và những điều quán tưởng trong lúc tu tập. Ngài cũng phân biệt giữa nội tâm và ngoại cảnh tạo nên những hiện tượng trong lúc thiền định và làm cách nào để sử dụng chúng. Ngài cũng ghi nhận một điều quan trọng là “những sự việc này không xảy ra ở mọi trường hợp” và cho rằng bất cứ hình thức phát triển nào của thiền định, tuệ giác luôn luôn là một vấn đề quan trọng”. Tôi rất do dự khi nói quá nhiều chi tiết về những hình ảnh và những hiện tượng thỉnh thoảng đã phát sinh trong lúc thiền định vì sợ rằng những hành giả mới bắt đầu tu tập sẽ vướng mắc vào những vấn đề này mà cho là quan trọng hoặc muốn cảm nhận. Nó có thể là một cái bẩy, để nghĩ rằng sự xuất hiện những hiện tượng như vậy hoặc cho rằng chúng là một dấu hiệu của sự tiến bộ và cố gắng làm cho chúng xảy ra trong lúc thiền định. Nếu hành giả chọn chúng để tu tập để phát huy sự tập trung của mình, điều tốt nhất là cần có một người thầy hướng dẫn [1]. Ðừng có vui mừng bởi những hình ảnh mà dường như chúng có vẻ lạ lùng hoặc những cảm nhận đặc biệt từ tâm thiền định. Chúng không có giá trị. Chỉ có trí tuệ là quan trọng nhất.
Thiền sư Maha Boowa thường sử dụng thuật ngữ “trái tim”. Ðây không phải là trái tim theo ý nghĩa những phẩm chất tình cảm nào đó như là tình yêu thương. Bởi vì danh từ trái tim này ám chỉ cho tâm. Ðiều đó theo Phật giáo nguyên thủy, ám chỉ trái tim giống như là trung tâm điểm của cái tâm. Mục đích của nhà dịch thuật theo Phật giáo nguyên thủy, tỳ khưu Pannavado, thường dùng ngôn ngữ bình dân như lời của ngài Maha Boova dạy. Sự việc này dùng để duy trì phẩm chất của giáo pháp, mặc dù một số thuật ngữ không đáp ứng sự diễn giải thuộc kinh điển chính xác, chúng được dùng như là một sự hướng dẫn để phát huy thiền định bằng những lời dạy rất thực tiễn. Tu viện trong rừng của thiền sư Achaan Maha, Wat Ba Ban Tat, thì độ chừng một trăm mẫu tây ở tỉnh Udorn, ở vùng đông bắc Thái Lan. Chỉ có một số ít nhà sư và những liêu cốc nhỏ, không hơn hai mươi cái. Giới luật rất ngiêm khắc và ngài Achaan Maha Boowa dạy hơi giống như phong cách của vị thầy chơn tu của ngài. Có hơn mười người phương Tây theo học với ngài, một số cho đến bây giờ vẫn học nhiều năm, bởi vì ngài thường mong mỏi có một sự kế thừa của những người mới tu. Việc tu học ở đây – Wat Ba Ban Tat – cũng như những tu viện trong rừng khác ở Thái Lan, những người tu tập phải trải qua một cuộc sống theo giới luật, nghiêm khắc và cực kỳ đơn giản. Ngày ăn một bữa ngọ đạm bạc, ở những liêu cốc nhỏ, tắm nước giếng, khất thực vào buổi bình minh, tịnh khẩu trong những thời gian dài để tu thiền và sống cách ly trong một thời gian nào đó, tất cả đều góp phần cho một cuộc sống ít vướng bận đến cuộc sống trần tục. Như vậy, tu viện trong rừng cũng là một cơ sở cho việc tu tập thiền quán và cũng là một môi trường giáo dục đặc biệt. Trong tập thể giản dị đó, người ta có thể hành động khoan thai, giản dị, và theo dõi tiến trình thân tâm, và như thế để phát huy tuệ giác. Ðôi lúc ngài Maha Boowa đến Bangkok để thuyết giảng, và một số bài nói chuyện của ngài được xuất bản bằng Anh ngữ do tổ chức Wat Bavorniwah ở Bangkok cung cấp [1].
Trí tuệ phát huy Thiền định
Thiền sư Achaan Maha Boowa
Giới [2] là một điều luật để lập ra một giới hạn đối với “sự phấn khởi quá mức” [3] đối với những hoạt động về thân và lời nói của một người. Tâm [4] chịu trách nhiệm về những hành động và kết quả của chúng.
Ðối với một người tu tập giới luật đúng đắn, thì nó là mục đích của cuộc sống “mát mẻ” với tâm an lạc và dễ chịu. Nếu người đó cùng với những người khác duy trì giới luật, đó là điều cơ bản để bất cứ ai có thể trở thành người tốt. Tuy thế với những ai có tâm thấp hèn, không thể hiểu được sự cần thiết của giới luật bởi vì họ không muốn trở thành người tốt, hoặc cũng không muốn liên hệ thế giới của những người tốt. Họ chỉ muốn phá vỡ hạnh phúc của người khác và tạo nên những phiền toái và nguy hại trong cuộc sống bất cứ khi nào họ có cơ hội có thể làm được.
Cách cư xử đạo đức tự nhiên không phải đòi hỏi như là giới luật của vị sư hoặc do một ai ra lệnh với một khả năng cho phép trước khi nó thành một cơ cấu. Nếu như đối với một người có quan tâm và thích những đặc tính đó đúng, tốt và khoan dung, người ấy sẽ cư xử bằng cách này cũng như hòa hợp với người khác. Theo tự nhiên, họ tránh những hành động đi ngược lại với những cách cư xử tốt như vậy, cho thấy rằng người ấy đã có tư cách đạo đức.
Người ta sẽ không nghĩ rằng, giới hạnh chỉ dành riêng cho con người mà thậm chí thú vật cũng có những khuynh hướng này. Người ta chỉ cần quan sát những con thú mà họ nuôi nấng ở trong nhà thì có thể biết mức độ tâm của chúng như thế nào và cách cư xử của thú vật cũng tràn đầy nhân nghĩa.
Một người luôn luôn xem tư cách đạo đức là nền tảng của nhân cách, ngoài bản chất tốt và có sự tin yêu của một người hòa hợp với mọi người trong làng xã của mình, cũng sẽ là bản chất tốt của người ấy trong cuộc sống hiện tại và kiếp sau.
Cho nên giới hạnh là một phẩm chất luôn luôn cần thiết trong cuộc sống.
Ðịnh
Tất cả các loại thiền định [5] đều được dùng để kiểm soát tâm phóng túng. Tâm không kiểm soát do thiền định thì có thể phát sinh sự phóng túng. Sự phóng túng có trong người trẻ cho đến già, từ người nghèo đến người giàu, người thông minh cho đến kẻ ngu dốt, với những người có địa vị cao hay thấp trong xã hội, với người mù, điếc, bại liệt, bị thương tật v.v…
Trong Phật giáo những người như thế được xem vẫn còn ở tuổi “bồng bột”. Họ không có tâm an tịnh, không tìm thấy được sự thỏa mãn, đối với hạnh phúc của tâm thì họ được xem như là sự bất hạnh, khi họ chết, họ mất hết phương hướng giống như cây có nhiều cành, nhiều hoa và trái nhưng bởi vì rễ chính của nó bị hư hại, nó sẽ chết, nó sẽ mất đi sự đẹp đẽ và mọi thứ khác.
Kết quả tai hại của tâm phóng túng là không thấy được giáo pháp, giống như người bảo vệ tâm như vậy thì không bao giờ tìm thấy chơn hạnh phúc, và cho dù hạnh phúc phát sanh do tầm cầu và tìm kiếm nó, thì nó sẽ là một loại hạnh phúc giống như một diễn viên đang đóng kịch, nó làm gia tăng thêm sự “phóng túng”, sai khiến tâm càng ngày càng đi sai phương hướng và thực sự không có loại hạnh phúc nào đang đáp ứng cả.
Ðịnh có nghĩa là tâm an lạc và vững chãi, nó đối lập lại “sự phóng túng”. Nói một cách khác, tâm không muốn an lạc mà an lạc lại là thiền. Theo giáo pháp, sự gò bó có nghĩa là huấn luyện tâm của mình và không để nó phóng dật, bởi vì tâm luôn luôn thích sự phóng túng như là một người bạn đồng hành. Nói một cách khác, sự gò bó có nghĩa là giáo pháp mà chính giáo pháp là người bảo vệ tâm.
Giáo pháp là người bảo vệ tâm cũng được gọi là thiền. Tùy theo căn cơ của mỗi người. Ðức phật dạy bốn mươi đề mục thiền khác nhau [6].
Ở đây chúng ta giới hạn trong một số phương pháp thiền mà thông thường được sử dụng và đạt được kết quả khả quan. Chúng gồm có:
- Niệm ba mươi hai thể trược của thân, gồm tóc, lông, móng, răng, da…
2. Niệm ân đức Phật, Pháp, Tăng.
3. Theo dõi hơi thở ra vào.
Bất cứ phương pháp nào được sử dụng đều phải phù hợp với cá tính của mỗi người, bởi vì có những cá tính khác nhau, mọi người chỉ tu tập một loại đề mục thiền thích hợp cho mình, nhưng nó có thể là một chướng ngại đối với người khác, mà chướng ngại đó làm trở ngại những kết quả lợi ích trong việc tu tập.
Khi hành giả tìm được một đề mục thiền thích hợp với cá tính của mình [7], hành giả phải bắt đầu tu tập với một lời chú nguyện như là niệm thân “về tóc chẳng hạn”. Rồi hành giả phải lập lại sự chú nguyện đó bằng sự suy tưởng chứ không bằng lời, cùng lúc đó hành giả phải liên tục niệm đề mục tóc. Tuy vậy, nếu hành giả nhận thấy rằng việc suy niệm về tóc không thể giữ tâm, hành giả nên lập lại lời chú nguyện giống như bài kinh để âm thanh đó giữ được tâm và làm cho tâm trở nên an lạc và vắng lặng. Hành giả phải liên tục chú niệm cho đến khi tâm trở nên vắng lặng và rồi hành giả có thể ngăn lại. Bất cứ lời chú nguyện nào được sử dụng, hành giả phải luôn luôn ghi nhớ đó là đề mục thiền. Như vậy trong ví dụ đã nêu về “tóc” hành giả phải luôn luôn theo dõi đề mục tóc trên đầu. Nếu hành giả dùng một trong những lời chú nguyện “Phật, Pháp, Tăng”, hành giả phải có một sự nhận thức về nó ngay trong tâm, những hình thức chú nguyện này giống như những đề mục thiền khác, bởi vì ở đây hành giả phải niệm liên tục Phật Pháp Tăng, để nó luôn có một sự liên hệả với tâm và giữ nó ở đó cho đến khi hành giả liên tục niệm Phật và biết nó trong tâm [8] là tất cả đều giống nhau. Tu tập sự chú niệm về hơi thở là sử dụng hơi thở làm đề mục hỗ trợ tâm và giữ chánh niệm khi hơi thở ra vào. Trong đề mục theo dõi hơi thở, đầu tiên hành giả phải theo dõi cảm giác của hơi thở ở mũi và nóc giọng [9], bởi vì đây là những chỗ mà hơi thở có sự xúc chạm ban đầu, và hành giả có thể dùng những điểm này như là điểm tập trung tư tưởng. Hãy thực hành đề mục này đến khi hành giả trở nên thuần thục, và hơi thở ra vào càng trở nên vi tế hơn, hành giả sẽ đi đến sự hiểu biết về bản chất của xúc chạm ra vào của hơi thở, cho đến khi hành giả cảm thấy rằng hơi thở đó nằm giữa ngực [10]. Sau đó hành giả phải chú niệm vào hơi thở ở giữa ngực mà không còn chú niệm vào hơi thở ở chóp mũi hoặc nóc giọng hoặc hơi thở ra vào.
Khi chú tâm về hơi thở, hành giả cũng có thể niệm Phật cùng lúc với sự thở như là một câu chú nguyện để theo dõi hơi thở ra vào, để củng cố tâm, và làm cho tâm trong sạch đối với hơi thở. Rồi hơi thở sẽ càng trở nên rõ ràng hơn trong tâm.
Một khi hành giả đã thuần thục trong việc điều khiển hơi thở, bất cứ khi nào hành giả chú tâm vào tiến trình hơi thở, hành giả phải chú niệm vào điểm ở giữa ngực.
Ðặc biệt, điều quan trọng là hành giả phải có chánh niệm. Hành giả phải có chánh niệm để kiểm soát tâm để hành giả có thể cảm nhận được hơi thở ở từng giây phút trong lúc hơi thở ra vào, hoặc ngắn hay dài, cho đến khi hành giả biết rõ sự thở trở nên vi tế với từng hơi thở – cho đến khi cuối cùng nó thật rõ ràng là hơi thở hết sức vi tế và tâm có sự kết hợp lại và trở thành khối duy nhất [11]. Ở giai đoạn này hành giả phải chú tâm vào hơi thở ở trong tâm và không cần để ý đến lời chú nguyện, bởi vì việc theo dõi hơi thở ra vào, ngắn hoặc dài, lời chú nguyện chỉ là mục đích tạo cho tâm trở nên vi tế.
Khi hành giả đạt được mức độ hơi thở vi tế nhất, hành giả sẽ trở nên sáng suốt, mát mẻ, an lạc, hạnh phúc và biết được tâm – không còn dính líu đến bất cứ sự phiền não nào. Cuối cùng ngay lúc hơi thở biến mất, sẽ không còn sự lo lắng bởi vì hành giả sẽ đoạn trừ được gánh nặng và hành giả chỉ có một sự hiểu biết duy nhất về tâm. Nói một cách khác nó sẽ là một sự đồng nhất. Ðây là sự tu tập về an chỉ định [12].
Bất cứ lúc nào hành giả tu tập thiền định, và bất cứ ai tu tập nó, mục tiêu mà hành giả phải đạt đến là sự nhất tâm.
Liên quan đến sự tu tập đã có chuẩn bị và lời chú nguyện, bằng cách sử dụng một trong những hình thức thiền định để kiểm soát tâm với sự chánh niệm, hành giả dần dần có thể kiểm soát được tâm phóng dật. Rồi tâm sẽ phát sinh an lạc và hạnh phúc và chỉ có một điều ảnh hưởng đến tâm, điều đó là sự biết về tâm mà không có sự phiền não, bởi vì sẽ không có điều gì làm cho tâm khó chịu khiến nó biến mất khỏi trạng thái này. Ðây là hạnh phúc thật sự của tâm, tâm thoát khỏi những hình ảnh trống rỗng và những ý tưởng sinh khởi.
Cũng có thể là trong lúc tu tập một phương pháp thiền đã được định sẵn, những đặc tính của hình thức thiền đó có thể xảy ra với một số người. Ví dụ như, tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, có thể xuất hiện và thấy rõ trong tâm, mặc dù hành giả nhìn nó bằng đôi mắt chánh niệm. Nên sự việc này xảy ra, hành giả phải chú niệm nó và nhận thức nó rõ cho đến khi nó gắn chặt vào tâm của hành giả.
Khi đề mục trên đã trở nên quen thuộc với hành giả, hành giả phải đánh giá nó đúng mức bằng sự chú niệm về những khía cạnh ô trượt của nó, vì đây là những bản chất của những phần của thân thể, nội thân lẫn ngoại thân. Hành giả có thể nhận thức những đề mục như thế sâu sắc hơn và niệm chúng như là những vật bị mục nát và hoại diệt, bị đốt cháy, bị dòi, bọ, chó ăn chúng và nhìn thấy chúng tan vỡ thành những phần tử cơ bản – đất nước, gió, lửa.
Tu tập theo phương pháp này, có một giá trị lớn lao cho mục đích loại trừ và giảm bớt ảo giác về bản chất của thân, ảo giác này là đầu đề phát sinh tham dục – nó là một trong những khuynh hướng của tâm phóng dật. Rồi tâm hành giả sẽ trở nên an lạc và vi tế hơn, trí tuệ từ đó sẽ phát sinh.
Một người không nhận thức được những phần của thân thể sẽ hiểu rằng toàn bộ đề mục thiền đã được chuẩn bị trước là cho mục đích dẫn tâm đến trạng thái an lạc lẫn hạnh phúc, vì vậy hành giả đừng nên nghi ngờ về bất cứ điều gì về những phương pháp này. Tất cả những phương pháp này đều dẫn tâm đến trạng thái an lạc, và sau đó bằng trí tuệ hành giả thấy sự nguy hiểm [13]. Hành giả phải xác định trong bất cứ phương pháp thiền nào mà hành giả đang tu tập và bất cứ lời chú nguyện nào được hành giả niệm đều phù hợp với hành giả, không làm cho hành giả khó chịu hoặc ghét nó.
Ðiều đó phải hiểu rằng phương pháp thiền nào được hành giả tu tập, nó dẫn đến cùng một mục đích giống như tất cả những phương pháp khác và điều đó cũng nên hiểu là tất cả những phương pháp thiền trong Phật giáo sẽ làm cho tâm an lạc và hạnh phúc – nói một cách khác, sẽ chứng ngộ Níp-bàn – là mục đích cuối cùng của tất cả những loại đề mục thiền tu tập. Do đó hành giả phải thực hành phương pháp thiền riêng của mình và không có quan tâm đến bất kỳ loại đề mục thiền nào khác, nếu không thì hành giả sẽ có một tâm trạng hoài nghi, do dự và không thể quyết định phương pháp nào là chánh đạo. Ðây là một chướng ngại to lớn đối với tâm của hành giả, ngăn chặn hành giả từ công việc tiến hành sự quyết tâm lúc ban đầu.
Thay vì, hành giả phải quyết định rằng mình sẽ có chánh niệm trong sự thực hành, và hành giả không nên thực hành giới, định, tuệ theo bất kì thứ tự đặc biệt nào, mà cũng không để chúng thoát khỏi cái tâm, bởi vì phiền não tham sân, si trú ẩn trong tâm mà không ai sắp xếp chúng theo thứ tự được. Khi hành giả có sự suy nghĩ sai, thì nó làm cho tâm hành giả bị bạc nhược. Hành giả không quyết định hoặc sắp xếp được điều này đến sớm hơn hoặc điều nọ đến trễ hơn, dù bất cứ hình thức nào, vì vậy nó phát sinh và chúng làm cho tâm hành giả nóng nảy hoặc si mê giống nhau. Những phiền não phát sinh không theo một thứ tự nào hết, bởi vì tất cả những điều này có thể làm cho tâm hành giả nóng nảy và si mê. Vì thế để chữa trị phiền não, hành giả không cần chờ tu tập giới trước, đến định và rồi tuệ – mà có thể gọi sự tu tập thiền định theo từng bước – bởi vì phương pháp này luôn luôn trói buộc hành giả vào quá khứ và tương lai, và bằng phương pháp này hành giả không bao giờ có thể đạt được an lạc và hạnh phúc.
Trí tuệ phát sinh Thiền định
Mục đích chính của sự tu tập thiền định là mang lại tâm an lạc. Nếu hành giả không đạt được sự an lạc bằng tâm vắng lặng bởi một phương pháp đã chuẩn bị trước, hành giả phải sử dụng một phương pháp đầy thử thách để chinh phục nó. Nói một cách khác, hành giả phải dùng tâm để khám phá và chứng nghiệm những việc làm cho tâm vướng mắc, và việc này tùy thuộc vào tâm khôn khéo của hành giả ra sao, để tìm một phương pháp điều khiển tâm bất trị với những gì mà trí tuệ phát hiện được, cho đến khi nó khuất phục trí tuệ và tâm chấp nhận sự thật về những vấn đề nó bị dính mắc. Như vậy hành giả đừng để tâm phóng dật và lơ đãng mà phải đưa nó vào trạng thái an lạc. Ðiều này xảy ra giống như việc điều khiển một con vật “mà sự phóng túng của nó” cần phải được dạy dỗ liên tục để nó nghe theo lời của người chủ.
Ðiều tương tự dưới đây có thể giúp hành giả làm sáng tỏ phương pháp này, ở một nơi, chỗ đó một số ít cây và mỗi cây thì mọc theo cách riêng của nó, nếu một người muốn hạ nó xuống, người ấy phải làm cho nó ngã xuống nơi người ấy muốn. Rồi người ấy lấy nó và sử dụng nó theo ý muốn của mình mà không chút khó khăn.
Nhưng nếu người ấy muốn hạ một cây trong rừng ở chỗ này, những cành của nó cuốn lấy những cây khác và những dây leo, người ấy sẽ nhận thấy rằng rất khó khăn để hạ cái cây và làm cho nó ngã xuống nơi người ấy muốn. Vì thế người tiều phu chắc hẳn phải dùng trí khôn của mình và xem xét cẩn thận để tìm ra cái cây đã quấn vào những cây nào và rồi người ấy chặt tất cả những phần quấn đó, người ấy có thể làm cho nó ngã nơi người ấy muốn và lấy nó để dùng, tuy thế điều ước muốn của người này không có gì khó khăn lắm.
Tất cả chúng ta đều có những cá tánh mà có thể so sánh với hai trường hợp này. Một số người không có nhiều gánh nặng trong cuộc sống và có thiên hướng tu tập thiền định. Họ chỉ dùng phương pháp thiền đã chuẩn bị sẵn như là niệm Phật, Pháp, Tăng, thì tâm của họ có thể trở nên an lạc, mát mẻ và đi vào trạng thái thiền định. Ðiều này là cơ bản cho việc tu tập tuệ giác và có thể giúp họ tiến tới thoải mái – trong trường hợp này thiền định phát sinh tuệ giác.
Nhưng có một số người, có nhiều gánh nặng trong cuộc sống, đè nặng trong tâm trí họ, và bản chất của họ thích suy nghĩ. Nếu họ dùng phương pháp thiền đã chuẩn bị trước để tu tập như đã được diễn giải ở phần trước, thì họ không thể đưa tâm vào sự an lạc của thiền định. Cho nên họ phải dùng trí tuệ để suy xét, để đoạn trừ tận gốc sự xao lãng.
Khi tâm trí bị khó chịu về những vấn đề dính mắc, những gì tâm biết về chúng không thể hơn những điều mà trí tuệ khám phá ra đuợc, như vậy tâm sẽ đi vào trạng thái an lạc và đạt được thiền định. Cho nên những người có tính cách này phải huấn luyện tâm để đạt được thiền định bằng cách dùng tuệ giác; ở trường hợp này “tuệ giác phát sinh thiền định”.
Một người muốn huấn luyện tâm của mình trở nên thuần thục và muốn biết những điều xấu xa tiềm ẩn trong tâm, đừng nên quá chấp thủ vào việc tìm hiểu nó ở trong Phật giáo, vì như thế chỉ tạo nên những phiền não. Nhưng người ấy cũng đừng bỏ đi việc nghiên cứu và tìm hiểu, bởi vì làm như vậy sẽ sai lời dạy của đức Phật.
Nói một cách khác, khi hành giả tu tập thiền với mục đích phát huy định, hành giả đừng để tâm dính mắc vào những gì đã hiểu được do sự tìm hiểu, bởi vì nó sẽ dấn vào những ý tưởng về quá khứ và tương lai. Thay vào đó, hành giả phải giữ tâm ở hiện tại, điều này có nghĩa là điều quan tâm duy nhất phải là khía cạnh của giáo pháp mà hành giả đang tu tập.
Khi có một số vấn đề hoặc một điểm hoài nghi về sự liên quan giữa tâm của hành giả với những điều mà hành giả không thể giải quyết được, hành giả nên kiểm tra nó bằng cách nghiên cứu và tìm hiểu khi hành giả đã hoàn thành việc tu tập thiền. Nhưng thật là sai trái, khi hành giả phải luôn luôn kiểm tra việc tu tập với những gì mà hành giả hiểu được qua sự nghiên cứu, bởi vì điều này chỉ đơn thuần là kiến thức mà không phải là tuệ giác đạt được từ việc tu tập thiền định.
Trí tuệ mang lại sự an lạc có thể đạt được từ sự học hỏi đúng đắn về các kinh điển của Phật giáo. Nó cũng có thể đến được từ sự suy niệm về bản chất thật của những phần trong cơ thể. Thấy được sự vô thường và khổ não của chúng là sẽ dẫn tâm đến an lạc. Trí tuệ cũng có thể đạt được từ sự thẩm sát và quán chiếu những chấp thủ, những nỗi lo lắng và những điều sợ hãi của chúng ta. Tuệ giác này và những sự suy niệm sâu sắc hơn về thân và tâm, sẽ dẫn đến sự đoạn trừ cao hơn, và cuối cùng là an lạc và định. Như vậy nếu tâm đạt được sự an tịnh với một đề mục thiền chỉ chẳng hạn, như đề mục niệm mà hành giả đang tu tập, hành giả phải duy trì phương pháp đó. Nhưng tâm chỉ đạt được sự an lạc bằng cách dùng tuệ giác, dùng những phương pháp thiết thực nhưng để vượt qua những khó khăn, rồi thì hành giả phải sử dụng tâm khéo léo để đạt được sự an lạc. Những kết quả đạt được như hai phương pháp tu tập này (định phát huy tuệ giác và tuệ giác phát huy định), là sự phát huy tuệ giác và sự an lạc sâu sắc, sự tu tập sẽ phát sinh hỉ lạc tiềm ẩn trong tâm.
Tu tập Thiền định
Thiền định (samadhi) có nghĩa là vắng lặng. Có ba loại thiền định: thứ nhứt là cận định, ở giai đoạn này tâm trở nên tập trung và vắng lặng trong một khoảng thời gian, và sau đó thì sự tập trung sẽ biến mất. Thứ hai là nhập định, ở giai đoạn này cũng tương tự như giai đoạn trên, nhưng thường kéo dài lâu hơn. Loại thứ ba là an chỉ định thường rất vi tế, vững chắc và không thay đổi, ở giai đoạn này hành giả có thể duy trì sự tập trung lâu dài. Hành giả có thể duy trì sự tập trung ở trạng thái này hoặc xả bỏ khi hành giả muốn.
Nhập định là giai đoạn quan trọng cần được thảo luận sâu sắc hơn, bởi vì nó có tính cách quyết định đối với việc phát huy sự tập trung và tuệ giác sâu xa hơn. Ơủ giai đoạn nhập định, khi tâm của hành giả đã đi vào sự an lạc nó không duy trì ở trạng thái đó, nhưng một phần của nó biến mất để đi theo và tìm hiểu những điều khác mà có sự liên hệ với tâm.
Ở giai đoạn nhập định, đôi khi xuất hiện phía trước hành giả một hình ảnh (nimitta, tướng) [14] của một người nằm chết với thân xác mục rã, hoặc nó có thể là xác chết của một ai đó. Ðôi lúc là một bộ xương người, hoặc những khúc xương nằm rải rác, hoặc hành giả có thể thấy nó là một thi thể được thấy từ quá khứ.
Khi một hình ảnh như thế xuất hiện, một người thông minh sẽ nắm lấy nó như một hình ảnh để quán chiếu. Hình ảnh này sẽ giúp cho hành giả đi đến sự tập trung vững chắc và trí tuệ trở nên thể nhập và mạnh mẽ. Nhưng người này phải có một khả năng mạnh mẽ để duy trì một thái độ khách quan và hợp lý để thành công trong việc đạt được sự lợi ích từ những hình ảnh như thế. Rồi thì hành giả phát huy chánh niệm cùng với trí tuệ khi đối mặt với nó.
Thực hành với hình ảnh để quán chiếu là một nền tảng thích hợp nhứt cho việc phát huy sự tập trung sâu hơn và một hình ảnh vững chắc. Hình ảnh quán chiếu là một nền tảng cơ bản để trở thành hiện thực. Khi những hình ảnh này bị vỡ ra thành những phần nhỏ, nó trở thành hình ảnh vững chắc. Ví dụ như, sự quán chiếu về thân của hành giả có thể là một hình ảnh quán chiếu, nhưng khi nó bị phân chia và phô bày tất cả những bộ phận và những cơ quan, nó trở thành hình ảnh cố định không thay đổi. Hành giả phải phát huy hình ảnh quán chiếu thành một hình ảnh cố định rồi ghi nhận ấn tượng của hình ảnh cố định này vào trong tâm của hành giả. Ðiều này mang lại chân lý cao cả để làm cho tâm của chúng ta sáng suốt [15].
Khi hành giả đã thuần thục với sự tập trung, hành giả có thể giữ cho tâm thoải mái, theo dõi hình ảnh và khám phá những gì đang diễn ra, điều này có giá trị hết sức lớn lao giúp cho hành giả hiểu được những sự kiện của quá khứ và tương lai.
Hành giả phải làm cho tâm trở nên dũng mãnh và không sợ hãi khi có những hình ảnh khác nhau phát sinh ở giai đoạn nhập định, và ở giai đoạn khởi sự, hành giả thấy chúng nằm trong tam tướng của vô thường, khổ não và vô ngã ngay khi chúng xuất hiện [16]. Như thế chúng sẽ không gây ra sự phiền toái nào.
Ðôi lúc những hình ảnh bên ngoài có thể đi ngang qua, mặc dù hành giả có thể không biết chúng đến từ bên ngoài hoặc phát sinh trong tâm của hành giả. Nhưng khi hành giả đã thuần thục những hình ảnh phát sinh từ trong tâm thì hành giả có thể biết hình ảnh nào đến từ bên ngoài. Những hình ảnh ngoại cảnh được kết hợp với nhiều sự kiện xảy ra khác nhau về người, thú vật, ma quái… những sự kiện xảy ra như thế, chúng có thể kéo dài hoặc ngắn tùy thuộc vào những điều kiện nội hoặc ngoại. Những hình ảnh như thế biến mất và tâm cũng xả bỏ, nó có thể trải qua nhiều giờ ở trạng thái có liên quan đến chúng.
Tuy vậy đối với tâm duy trì sự tập trung lâu dài bằng cách này, khi xả bỏ sự tập trung, hành giả sẽ nhận thấy rằng nó không gia tăng sức mạnh của sự tập trung của hành giả, mà cũng không làm cho nó vững chắc và bền bỉ, và cũng không giúp cho hành giả phát huy được sức mạnh trí tuệ. Nó giống như giấc ngủ mộng mị, khi hành giả thức dậy, thân và tâm của hành giả sẽ không được thoải mái.
Nhưng khi hành giả xả bỏ thiền định ở một giai đoạn mà hành giả tập trung được và duy trì được nó trong trạng thái đó, hành giả sẽ nhận thấy rằng sức mạnh tập trung sẽ gia tăng và nó trở nên vững chắc và bền bỉ. Nó giống như một người ngủ say không có mộng mị, khi người ấy thức dậy, họ cảm thấy thân tâm khoẻ mạnh.
Tuy nhiên, chúng ta cần nên hiểu rằng, loại thiền định mà những hình ảnh này xuất hiện, thì nó hoàn toàn khác ở mọi trường hợp, và lúc nó không xảy ra, thì chúng ta không đặt thành vấn đề tâm duy trì được bao lâu trong một trạng thái tập trung, hiếm khi có những hình ảnh xuất hiện. Ðây là những hạng người mà hành giả có thể gọi là “trí tuệ phát sinh thiền định”. Với những hạng người này, thậm chí khi tâm đi vào trạng thái an lạc và định, không có những hình ảnh phát sinh, tuy thế họ duy trì trạng thái này lâu dài, bởi vì trí tuệ được kết hợp và có liên hệ với sự tập trung. Trí tuệ có nghĩa là khi hành giả liên tục quán chiếu và thẩm định những trạng thái tâm trong lúc tập trung là ở hiện tại, và điều này ngăn chặn bất cứ hình ảnh nào phát sinh một cách có hiệu quả.
Bất cứ loại thiền định nào mà hành giả tu tập, trí tuệ vẫn luôn luôn là điều quan trọng. Một khi hành giả đã xả thiền, hành giả phải luôn luôn suy niệm về ngũ uẩn và tứ đại bằng trí tuệ, bởi vì trí tuệ và định là giáo pháp, chúng đi cùng nhau và không thể tách rời. Vì vậy nếu thiền định không đạt được sự tiến bộ đầy đủ, hành giả phải dùng trí tuệ để hỗ trợ nó.
Theo cơ bản, mặc dù tất cả các loại thiền định đều là những sự hỗ trợ và giúp đỡ cho sự phát huy trí tuệ, ở phạm vi mà nó hỗ trợ tùy thuộc vào sức mạnh tập trung của hành giả. Nói một cách khác, tập trung là sự giúp đỡ và hỗ trợ tâm rõ ràng, vừa phải hoặc vi tế, trí tuệ thì rõ ràng, vừa phải và tương đối vi tế và nó tùy thuộc vào sự khôn khéo của một người dùng sự tập trung để phát huy trí tuệ.
Nhưng nói một cách tổng quát, bất cứ sự tập trung nào mà hành giả đạt được, trong lúc tu tập thiền định thì có thể bị dính mắc vào nó, bởi vì khi tâm ta đi vào trạng thái tập trung và nương gá ở đó, một trạng thái an lạc và hạnh phúc sẽ xuất hiện. Người ta có thể nói rằng, hành giả bị dính mắc vào trạng thái an lạc tâm không có vấn đề trong lúc nó duy trì sự tập trung, và nó có thể duy trì bao lâu miễn là người ấy thích, tùy thuộc vào mức độ tập trung của hành giả.
Một điều quan trọng là khi hành giả xả thiền, tâm vẫn còn giữ trạng thái an lạc của nó lâu dài. Mặc dù hành giả có đủ sự an lạc để hành thiền bằng trí tuệ – và sự an lạc của hành giả đủ để sử dụng rất hiệu quả – hành giả vẫn phải cố gắng duy trì trạng thái an lạc sâu sắc, nhưng không quan tâm đến sự phát triển trí tuệ chút nào cả. Ðiều này làm cho hành giả dính mắc vào thiền định và không thể từ bỏ nó để tiến xa hơn.
Trí Tuệ
Phương pháp đúng đắn và rõ ràng đối với một người tu tập thiền là khi tâm của họ trở nên vắng lặng đủ để nhận thức và bắt đầu luyện tập nó để thẩm sát những phần của cơ thể bằng trí tuệ, từng phần hoặc nhiều phần, mở rộng nó ra và quán chiếu cơ thể của mình.
Những điều ước mơ không thành tựu cũng thuộc và nằm trong thân này. Ảo giác về con người và pháp hành [17] là ảo giác về thân này. Chấp thủ về con người và pháp hành là sự chấp thủ về thân này. Sự phân biệt con người và pháp hành là sự phân biệt của thân này. Sự tham đắm về tình yêu và hận thù là sự tham đắm về thân. Không muốn chết là sự lo lắng về tấm thân này – khi một người qua đời, bạn bè thân nhân khóc lóc, thương tiếc là vì thân này. Sự thất vọng và đau khổ từ ngày chào đời cho đến chết cũng vì thân này. Ngày lẫn đêm người và vật chạy theo con đường này và thành từng đoàn, tìm kiếm thức ăn và nơi ở cũng vì bản chất của thân.
Nguyên nhân lớn lao trong thế gian này là bánh xe cuốn hút người và vạn vật theo nó mà không bao giờ để họ mở mắt nhìn sự việc chín chắn theo bản chất tự nhiên của nó; nó giống như ngọn lửa đang thiêu đốt họ liên tục. Thân xác là nguyên nhân của mọi việc. Chúng sinh gặp phải vô số phiền não cho đến khi họ hoàn toàn không thể thoát ra khỏi hoàn cảnh này, cũng bởi vì thân. Nói tóm lại, toàn bộ câu chuyện trong thế gian này là những điều có liên quan về tấm thân lẻ loi này.
Khi quán chiếu thân bằng phương pháp được trình bày trước đây là trí tuệ, nó sẽ trở nên nhàm chán về thân của mình lẫn thân người khác và thú vật. Ðiều này sẽ giảm bớt sự thích thú của hành giả đối với thân xác, và như vậy sẽ từ bỏ sự chấp thủ về thân và đoạn trừ nó. Cùng lúc đó hành giả sẽ biết thân và toàn bộ những phần của nó thực sự là cái gì, và hành giả không còn tham đắm tình yêu và hận thù với thân xác của người khác nữa.
Trong khi dùng ánh sáng trí tuệ để quán chiếu thân, tâm có thể nhận biết được bản thân của mình và rồi hiểu tâm người khác, cũng như những loài cầm thú khá rõ ràng, cho đến khi nào hành giả thấy nhiều chi tiết hơn là tất cả thân thể được phân chia thành ba phần (là tam tướng: vô thường, khổ não, vô ngã) và chia thành bốn yếu tố (là tứ đại: đất, nước, gió, lửa). Từ đầu đến cuối mỗi phần của thân thể đều là như vậy. Thậm chí nhà vệ sinh và nhà bếp đuợc hành giả quán chiếu bằng “thân” này.
Ai có thể quán chiếu tinh thông thân thể theo phương pháp này thì có thể được tôn xưng giống như một người am tường thế gian và hiểu biết tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống. Ðể quán chiếu rõ phạm vi “trung ấm” từ đầu đến cuối, tất cả tam giới này là nhờ quán chiếu theo phương pháp thật mọi thứ trong phạm vi của “thân” và cuối cùng quán chiếu tất cả hoài nghi đối với thân thể, điều này được gọi là sắc pháp [18].
Bây giờ chúng ta tiếp tục thảo luận về tuệ giác uyên thâm mà nó phát sinh từ thiền định liên quan với danh pháp [19]. Danh pháp gồm có: thọ, tưởng, hành và thức – bốn phần này thuộc năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Hành giả không nhìn thấy chúng bằng mắt mình được, mà có thể cảm nhận chúng bằng tâm thức. Chính xác hơn bốn uẩn này được định nghĩa như sau:
Thọ (vedana) nghĩa là những cảm giác được hành giả cảm nhận bằng tâm đôi khi nó là thọ vui, thọ khổ và thọ trung tính.
Tưởng (sanna) nghĩa là ý thức và bao gồm ghi nhớ và hồi tưởng.
Hành (sankhàra) nghĩa là tâm hành, ý hành và những sự liên hệ của tâm đối với những đối tượng ngoại trừ đặc tính cảm giác và sự nhận thức.
Thức (vinnàna) là tâm thức hay sự cảm nhận về sắc, thinh, hương, vị, xúc, là những ấn tượng thuộc về tâm thức, ngay giây phút đó khi những đối tượng này tiếp xúc với mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý một cách tương ứng.
Bốn danh pháp này là những hoạt động của tâm, phát xuất từ tâm, có thể cảm nhận trong tâm, và nếu như tâm vẫn còn phóng túng thì chúng là những kẻ lừa dối của tâm, và do đó chúng là những thứ có thể làm lu mờ chân lý.
Sự thẩm sát bốn danh pháp này hành giả phải thực hiện bằng trí tuệ, và toàn bộ trong thuật ngữ thuộc về tam tướng, chúng luôn thay đổi trong bất kỳ hình thức gì, những uẩn này luôn luôn có sự hiện diện của tam tướng trong phạm vi của chúng. Nhưng khi sự thẩm sát những uẩn này, hành giả có thể làm như vậy một cách đơn độc hoặc là thực hiện bất kỳ một trong tam tướng nào khi hành giả muốn, hoặc là hành giả có thể thẩm sát tất cả chúng với nhau, bởi vì mỗi cái trong uẩn và mỗi cái trong tam tướng là những khía cạnh của chánh pháp mà nó được liên kết và quan hệ với nhau. Như vậy nếu hành giả chỉ thẩm sát một trong năm uẩn hoặc một trong tam tướng thì nó sẽ đưa hành giả đến để hiểu biết và thấy được sự uyên thâm và đầy đủ trong tất cả những uẩn và các tướng còn lại, dường như hành giả muốn thẩm sát tất cả chúng với nhau cùng một lúc, bởi vì tất cả chúng có những chân lý cao cả như là biên giới, lãnh thổ của chúng, và giống như điều đó thì thích hợp cho chúng. Bởi vì bất cứ khi nào hành giả nhìn vào tam tướng về ngũ uẩn, hành giả thấy được tứ diệu đế. Ðiều đó giống như ăn thực phẩm, nó xuống bao tử, sau đó thấm vào những phần của thân thể, tất cả những vùng mà thích hợp cho nó.
Một người tu tập thiền định phải có tâm chánh niệm và trí tuệ để gần gũi và quen thuộc với danh pháp – đó là tứ uẩn. Tứ uẩn này luôn luôn thay đổi bởi vì chúng xuất hiện trong một khoảng thời gian, rồi biến mất hoặc đoạn diệt; vì là vô thường nên chúng cũng đau khổ và vô ngã. Ðây là tính cách mà chúng muốn phô bày và nói lên bản chất thật của chúng, nhưng chúng chẳng bao giờ có thời gian để dừng lại và quán chiếu nó. Chúng không bao giờ có thời gian để an lạc, thâm chí trong một giây phút. Từ ngoại cảnh cho đến nội tâm, ở khắp mọi nơi, suốt mọi lãnh vực, chúng nhất trí cho thấy rằng đều là vô thường, và vì thế có khổ và vô ngã, và đó là điều chúng khước từ lòng tham muốn, có nghĩa là chúng không có người làm chủ. Chúng muốn nói lên rằng, chúng luôn luôn tự tại và không có sự ràng buộc, và bất cứ ai còn si mê và chấp thủ vào chúng thì chỉ gặp đau khổ, thất vọng, buồn chán chứa đầy trong lòng cho đến lúc cuối cùng. Nước mắt đau khổ của người ấy giống như con sông ngập lụt; điều này vẫn tiếp tục như vậy mãi mãi và trong khi làm người vẫn còn si mê và đầy sự trói buộc. Tuy vậy, người không dễ dàng biết rằng những uẩn đó là biển lệ cho bất cứ ai còn si mê.
Việc thẩm sát tất cả uẩn và những khía cạnh của thân hoặc pháp của tự nhiên, với trí tuệ chơn chánh để biết chúng một cách rõ ràng, hạn chế tối đa sự đau khổ và giảm bớt tiến trình tái sinh. Thậm chí người cũng có thể đoạn trừ chúng hoàn toàn trong tâm, để người ấy có thể cảm nhận được hạnh phúc chơn chánh.
Pháp của tự nhiên chẳng hạn như những uẩn, là thuốc độc cho những ai vẫn còn chìm đắm trong si mê, nhưng đối với một người thật sự biết rõ những uẩn và pháp trong tự nhiên thì không bị nguy hại bởi chúng và có thể đạt được những giá trị từ chúng bằng những đường lối thích hợp. Nó giống như một nơi có nhiều bụi gai đương mọc lên; chúng có thể gây nguy hiểm cho bất cứ ai không biết chúng nằm ở đâu và họ bị vướng vào chúng. Nhưng một số người khác biết rõ chúng và dùng chúng làm hàng rào cho một nơi ở, như vậy người đó đã tạo được lợi ích cho mình vì đã sử dụng chúng đúng cách. Vì vậy một người tu tập thiền định phải khôn khéo kết hợp giữa những uẩn và pháp trong tự nhiên.
Khi thực hành sâu sắc, hành giả đang thực hiện việc tu tập sẽ hoàn toàn bị lôi cuốn trong việc tìm kiếm bản chất thật của những uẩn và giáo pháp. Hành giả hầu như không có thời gian để nghỉ ngơi và ngủ bởi vì sức mạnh tinh tiến khiến hành giả không muốn dừng nghỉ mà lao vào việc thẩm sát bằng con đường trí tuệ một cách tự nhiên.
Nhờ trí tuệ thấu hiểu chân lý, tâm hành giả trở nên trong sạch, hành giả thấy được bản chất như thật của giáo pháp ở khắp mọi nơi, thấy được phiền não và ái dục trong bất cứ hình thức nào, điều này không thể có được đối với người thiểu trí.
Sự so sánh sau đây có thể giúp hành giả làm sáng tỏ điều này. Giả sử như tên trộm đánh cắp một vài món đồ, những món đồ đó bị dơ bẩn do bởi có liên quan với tên trộm. Nhưng chính quyền cẩn thận điều tra vụ án cho đến khi họ có đầy đủ nhân chứng và vật chứng, họ thỏa mãn biết rằng những món đồ bị đánh cắp và chúng đã được hoàn lại cho người chủ cũ hoặc cất một nơi an toàn để không có ai bị nghi ngờ là có liên quan với chúng. Sau đó chính quyền không còn quan tâm đến những món đồ bị đánh cắp, nhưng họ chỉ xử lí việc phạm tội của tên trộm. Như vậy họ phải có bằng chứng để buộc tội tên trộm và bắt giữ anh ta rồi xử anh ta theo luật pháp. Khi có chứng cớ thật sự về tội lỗi của anh ta, tòa án sẽ buộc tội anh ta theo luật pháp, và những người không liên quan thì được trả tự do, như trước khi họ đã bị vu oan.
Tâm vô minh và các pháp ở thế gian thì đều giống như sự so sánh này, bởi vì những uẩn và các pháp thế gian thì không có trách nhiệm về sự lầm lẫn và hoàn toàn thoát khỏi những phiền não, và ác đạo, nhưng những uẩn và các pháp thế gian đều có liên quan với tam giới, bởi vì tâm hoàn toàn bị sức mạnh của vô minh khống chế, tự nó không biết được câu trả lời cho câu hỏi: “vô minh là gì?”
Vô minh và tâm là một và đó là cái tâm hoàn toàn bị vô minh dẫn dắt tạo nên yêu thương và hận thù được chôn dấu trong tứ đại và ngũ uẩn – đó là sắc, thinh, hương, vị, xúc, và ở trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm. Nó cũng ẩn chứa tình yêu và hận thù qua sắc, thọ, tưởng, hành, thức trong khắp tam giới. Ðó là vạn pháp mà tất cả những hình thức trên đều bị chấp thủ vào, và thương yêu hận thù cũng đến từ tâm si mê này, tâm đó đã bám víu và chấp thủ chúng.
Do bởi sức mạnh chấp thủ và bám víu, tâm vô minh đi thênh thang qua sinh, lão, bệnh, tử, và đi mãi mãi trên con đường này trong suốt mỗi kiếp sống, bất kể người sang hèn, tốt xấu, khắp cả tam giới này.
Những hình thức tái sanh khác nhau mà chúng sanh bị dính mắc vào tam giới thì vô tận, tuy vậy tâm vô minh có thể dính mắc vào bất cứ cảnh giới nào khi tái sinh phù hợp với những điều kiện của tâm và phụ thuộc vào điều kiện yếu hoặc mạnh, xấu tốt của chúng. Rồi cái tâm này sẽ đi tái sanh ở những tình huống mà những tình huống đó dẫn đến một môi trường phù hợp với tâm có liên hệ đến.
Như vậy tâm dần dần thay đổi khác với bản chất thật của nó, vì do bởi sức mạnh của vô minh và nó bắt đầu làm dơ bẩn và nhuộm màu cho mọi vật trong thế gian này bằng tính cách giả dối, như vậy nó đang làm thay đổi bản chất tự nhiên. Nói một cách khác, tứ đại thay đổi và trở thành người và súc vật, và rồi có sinh, lão, bệnh, tử, phù hợp với ảo giác thường còn và sự vô minh của con người.
Khi hành giả hiểu rõ sự việc bằng trí tuệ, ngũ uẩn và các pháp thế gian không phải là vấn đề chính, mà cũng không phải là điều khởi đầu của vấn đề, nhưng chúng có liên hệ với vấn đề do bởi sự vô minh, quyền lực và sức mạnh tạo nên vấn đề, lôi cuốn tất cả hiện tượng và bản chất tự nhiên này, rồi trí tuệ sẽ tìm kiếm nguồn gốc của tất cả, đó là nguồn gốc của tất cả vấn đề đã phát sinh vô tận, và trí tuệ đã đánh mất niềm tin vào tri kiến này mà nó nằm trong tâm. Trí tuệ đã thể nhập vào sự kiện mà “tâm biết” vẫn còn đầy vô minh và đó là tâm thường suy nghĩ sai lạc.
Bây giờ khi hành giả có chánh niệm và trí tuệ đã được phát huy do sự rèn luyện lâu dài, chánh niệm và trí tuệ có thể thấm nhuần và thể nhập thẳng vào “tâm”. Mặc dù tâm thì đầy vô minh và sẵn sàng để chiến đấu chống lại trí tuệ, sự vô minh này không còn có thể chịu nổi với “thanh kiếm kim cương”, với tâm chánh niệm và có trí tuệ, sự vô minh biến mất khỏi tâm mà nó được từng tôn vinh trong nhiều thời đại.
Ngay khi vô minh bị đoạn trừ và biến mất do bởi sức mạnh siêu phàm của tuệ đạo [20], nó là vũ khí chân chánh được dùng cho thời điểm này, toàn bộ chân lí đã bị ngăn chặn và bao phủ do vô minh trong vô số kiếp, bây giờ đã được mở ra và khám phá như là những món “đồ đã bị đánh mất” [21] hoặc như là chân lý hoàn hảo. Giáo pháp mà hành giả chưa được biết trước đây, cuối cùng đã xuất hiện như là tri giác và tuệ giác ở mỗi pháp – mà hành giả đã khám phá được mà không còn bị che dấu hoặc bị trở ngại.
Khi vô minh đã bị vũ khí của tuệ giác tiêu diệt, Níp-bàn sẽ sáng tỏ đối với những ai thực hành đúng như thế, hiểu biết đúng như thế, và nhận thức đúng như thế – không có cách nào khác hơn nữa.
Tất cả chơn đế từ năm uẩn hoặc những cảm xúc nội và ngoại [22] cho đến toàn bộ khắp thế gian là pháp bảo đã được hành giả khám phá chân tướng của nó. Như vậy chẳng còn có một điều gì có thể phát sinh như một kẻ thù trong tâm của hành giả trong tương lai – ngoại trừ sự thăng trầm của ngũ uẩn mà hành giả cần phải theo dõi cho đến khi chúng đạt đến cuối cùng của bản chất – chẳng có điều gì khác hơn nữa.
Như vậy toàn bộ vấn đề là sự vô minh “sự hiểu biết sai trái” mà mãi mãi quấy phá và cản trở những điều kiện tự nhiên, để chúng được thay đổi khỏi tình trạng tự nhiên của chúng. Chỉ cần đoạn trừ vô minh, thế gian – có nghĩa là bản chất tự nhiên của vạn vật – trở nên bình thường và chẳng còn có một điều gì để đổ lỗi hoặc chỉ trích. Sự việc này như thể là một tên cướp đã bị cảnh sát tiêu diệt, và sau đó những người dân thành phố có thể sống hạnh phúc và không còn phải lo lắng sợ hãi.
Rồi tâm có sự hiểu biết, nhận thức và đi theo chân lý của tất cả pháp chân đế, và tri kiến này được quân bình và không còn thiên kiến về một mặt nào.
Kể từ ngày vô minh bị đoạn trừ ra khỏi tâm, nó sẽ không còn lại trong ý nghĩ, thiền định, hiểu biết, và nhận thức thể nhập vào chân đế đều được kết hợp với tâm. Mắt, tai, mũi v.v., và sắc, thinh, hương v.v. như vậy chúng biến mất ra khỏi bản chất tự nhiên của chúng, mà không bị đè nén hoặc bị trói buộc, mà cũng không đẩy mạnh và khuyến khích do bởi tâm theo như thường lệ. Bởi vì tâm bây giờ ở trong một trạng thái của pháp và thanh thản, nó vô tư với mọi thứ cho nên nó sẽ không còn bất cứ kẻ thù nào nữa. Ðiều này có nghĩa là tâm và các pháp trong vũ trụ hòa hợp trong một trạng thái hết sức an lạc và vắng lặng do bởi giá trị chân lý hoàn hảo.
Công việc của tâm và tuệ giác thể nhập vào danh pháp đi kiềm với tâm được kết thúc ở điểm này.
Tôi muốn xin lỗi với những ai tu tập vì mục đích loại trừ phiền não bằng cách thực hành giáo pháp của đức Phật, và những ai đã tìm thấy lời giải thích này khác biệt với những điều mà quí vị đã tu tập. Nhưng hành giả cũng phải biết rằng pháp trong tất cả kinh điển cổ của Phật giáo cũng vạch rõ vào những sự phiền não và pháp nằm trong nó, bởi vì hành giả đừng nghĩ rằng phiền não và pháp được che giấu ở một chỗ nào khác, ở bên ngoài, tách rời khỏi nó.
Người có giáo pháp sẽ có tâm vững chắc và không còn bị ràng buộc, bởi vì giáo pháp của đức Phật dạy cho mỗi người chúng ta, được sử dụng và cảm nhận trong mọi tâm của chúng ta. Hành giả đừng bao giờ nghĩ rằng giáo pháp của Phật là vấn đề của quá khứ và tương lai và nó chỉ liên hệ với những ai chết hoặc chưa ra đời. Hành giả phải nhận thức rằng đức Phật đã không dạy cho những ai đã chết hoặc những người chưa được sanh ra. Ngài chỉ dạy cho người ở hiện tiền và cho những người còn sống như chúng ta, bởi vì bản chất của Phật giáo là hiện hữu trong hiện tại và luôn luôn là một vấn đề của hôm nay.
Cầu xin cho tất cả chúng sinh được hạnh phúc, và cầu xin phước báu cho tất cả những ai đọc và nghe bài pháp này.
Chú thích:
[1] Một tập diễn giải về việc phát huy sự quán tưởng, những hình ảnh, và cách sử dụng chúng được tìm thấy trong một vài chương của quyển Thanh tịnh đạo (Visuddhimagga), một bản chú giải nổi tiếng về thiền Phật giáo, được xuất bản trong một ấn bản mới của nhà xuất bản Shambhala Publication.
[2] Giới được dịch từ Sìla. Sìla có một nghĩa rộng hơn đối với những mức độ cao và vi tế hơn theo ý nghĩa của nó, nó bao gồm toàn bộ những hành động và lời nói của thân, mà được ấn định là thiện hoặc ác, tùy thuộc vào tâm của một ai tạo nên chúng với ít hoặc nhiều tình thương.
[3] Sự phấn khởi quá mức được dịch từ tiếng Thái là kanong, nó thường có nghĩa là “phấn khởi”. Nhưng trong cách dùng của mạch văn này thì đặc biệt nó muốn nói về sự phô trương của cái ngã qua hình thái của thân và tâm, và liên hệ với sự tự cao về bản ngã mà sự phô trương như thế này được tạo ra để nói lên về mình lẫn người khác.
[4] Tâm được dịch từ tiếng Thái là “chai”. Nó thường được dịch là “tâm” nhưng trong mạch văn này hơi sai lạc bởi vì ngày nay tâm thì có liên hệ với thiết bị có sự suy nghĩ, bộ não và cái đầu, trong lúc đó “chai” phần lớn thì thuộc về tình cảm và nó không thuộc về thể xác, một phần của nó, hoặc ngay chức năng của nó – lẽ dĩ nhiên mặc dù nó có chức năng như vậy, kết hợp với tình cảm và thể xác thì có ảnh hưởng liên quan lẫn nhau mạnh mẽ giữa hai yếu tố đó.
[5] Thiền định là pháp nghiệp xứ (Kammatthana), từ Kammatthana được kết hợp bởi Kamma (hành động) và Thana có nghĩa là nơi chốn, hoặc nền tảng. Như vậy nó là một nơi hoặc nhân của hành động. Bốn mươi đề mục nghiệp xứ là những đề mục và những phương pháp của thiền định được trình bày sâu sắc hơn chương trình này. Nhưng từ nghiệp xứ cũng được dùng với một ý nghĩa rộng rãi hơn để đề cập đến phương pháp áp dụng lời dạy của đức Phật bằng một phương pháp thực tiễn được phân biệt rõ ràng với việc đọc lý thuyết hoặc nghiên cứu về nó.
[6] Xin xem chương về thiền sư Sunlun Sayadaw.
[7] Người ta có thể hỏi rằng phương pháp thiền nào thích hợp với cá tính của hành giả. Ngoại trừ một vị thầy có khả năng mới xác định loại thiền đặc biệt, hành giả chỉ có thể cảm nhận được điều này qua phương pháp bị sai lạc hoặc không đúng. Hành giả có thể nói rằng loại thiền hành giả tu tập mà hành giả cảm thấy thích thú, tạo cho hành giả có sự chú ý hoặc làm cho hành giả thấy thoải mái bằng nói cách này hay cách khác, cái phương pháp đó thích hợp với hành giả. Hành giả cũng thường cảm thấy mát mẻ, thanh thản và an lạc sau một thời gian tu tập đúng pháp.
[8] Thực tế biết trong tâm là một hình thức của tâm.. Giả sử hành giả đã nói dối với một người; những hành động, lời nói, tư tưởng của hành giả tất cả đều phù hợp với hành giả, nhưng chỗ nào đó có cái tâm, và nó luôn luôn biết đó là lời nói dối. Tuy vậy nó phải luôn luôn ở trong tâm ngoại trừ ở những trường hợp hiếm hoi, cái tâm vẫn luôn bị ảnh hưởng bởi vô minh, mặc dù tâm biết điều đó, có nhiều việc tâm nhận biết đó là sai trái.
[9] Phương pháp tu tập này không thực hiện bằng cách há miệng, vì thế hơi thở là luồng không khí không đi qua ngang nóc giọng. Tuy vậy, nhiều người nhạy cảm ở phần này, mặc dù hơi thở đi ra đi vào.
[10] Hơi thở được cảm nhận ở giữa ngực hoặc ở đám rối thần kinh, thì được người ta cảm nhận nhiều như ở chóp mũi trong những giai đoạn đầu của việc tu tập. Người cũng đặt tiếp câu hỏi, tác giả trả lời rằng phần ở giữa ngực và đám rối thần kinh là một chỗ, nó nằm ở phía cuối cùng của xương ngực. Nhưng tác giả cũng đã nói rằng nếu như hành giả hiểu chúng là hai nơi riêng rẽ nhau, hoặc là nó có thể là nằm ở vị trí của sự nhận biết về hơi thở, điều này hành giả cũng đúng. Cũng cần ghi nhận rằng ở đây có sự liên quan giữa việc tu tập tâm trong phương pháp của thiền sư Achaan Dhammadaro và thiền sư U Ba Khin.
[11] Nói một cách khác, điều đó dường như tâm là hơi thở, và hơi thở là tâm..
[12] Xem bảng chú giải.
[13] Nguy hiểm có nghĩa sự nguy hiểm của thân có thể bị đoạn diệt bất cứ lúc nào do bởi một trong nhiều nguyên nhân khác nhau, và cũng là sự nguy hiểm của phiền não dẫn hành giả đến sự đau khổ và đến vòng sanh tử luân hồi khủng khiếp.
[14] Tướng hay ấn chứng (Nimitta) là một sự xuất hiện mà có thể xảy ra trong giai đoạn nhìn, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hoặc những ấn tượng tinh thần, và những điều này phát sinh dựa vào tâm và không dựa vào các cơ quan. Ví dụ về những hình ảnh (nimitta) về sự thấy hoặc nghe của sự quán tưởng, ánh sáng đề mục, âm thanh, và những sự cảm nhận về ma quái.
[15] Ghi nhận ấn tượng về hình ảnh cố định vào trong tâm của hành giả có nghĩa là hành giả mở rộng tâm để đón nhận nó. Nếu như hình ảnh này là hình ảnh của xác chết hoặc những phần của cơ thể, sau đó hành giả ghi nhận điều này là chân lý cao cả về sự đau khổ.
[16] Ðiều này có nghĩa là hành giả phải luôn luôn đi theo con đường trung đạo tránh xa những ham muốn quá mức về hình ảnh thích thú và chán ghét với hình ảnh không vừa lòng. Cũng như hành giả đừng chấp thủ vào một cảnh tượng thích thú rồi buồn bã khi nó biến mất. Bằng cánh nhận thức được sự vô thường, khổ não, vô ngã ở những cảnh tượng này, hành giả giữ được sự thanh thản và sự an lạc.
[17] Hành (sankhara) có nghĩa là những yếu tố, những chức năng và những sự liên hệ được kết hợp với nhau tạo nên thân, một người, một vật hoặc những vật khác. Ví dụ như, những thành phần được kết hợp với nhau tạo nên một chiếc xe hơi cũng có thể là sankhara của nó. Những ý tưởng dưới đây cho thấy rằng không có một thực thể mà có thể tìm được có liên quan đến một chiếc xe hơi như thế, bởi vì nó là tất cả những sankhara.
[18] Sắc (Rùpa) có nghĩa là “tính chất”, những sự kiện hoặc những lời dạy nó áp dụng cho vật chất. Mặc dù rùpa theo nghĩa văn chương có nghĩa là “sắc” nhưng thực tế nó đề cập đến thể xác.
[19] Danh pháp (nàma) theo một cách tương tự có nghĩa là “tính chất”, những sự kiện, những lời dạy, nó được dùng cho tâm. Nàma theo nghĩa văn chương có nghĩa là tên, nhưng nó thường được dùng để đề cập đến những sự kết hợp tinh thần của năm uẩn – nghĩa là thọ, tưởng, hành, thức.
[20] Tuệ đạo là sự hiểu biết rõ về bát chánh đạo, và nó là con đường mà người có thể áp dụng một cách thực tiễn.
[21] Ðoạn văn này có nghĩa là do bởi ảnh hưởng của vô minh, tâm khó chịu với ngũ uẩn và chân đế và nghĩ chúng là vật sở hữu của nó. Khi vô minh bị đoạn trừ, người ta thấy rằng chúng là “những món hàng đã bị đánh cắp”, mà hoàn toàn không phải là vật sở hữu của tâm, nhưng đó là những hiện tượng tự nhiên và trung tính.
[22] Phạm vi của cảm thọ là căn trần. Chúng bao gồm lục căn – mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm – và lục trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Bài viết trích từ cuốn Những Vị Thiền Sư Đương Thời – Jack Kornfield (Tỳ Khưu Thiện Minh dịch Việt). Quý vị có thể tải cuốn sách bản PDF tại đây. Xem Tiểu sử các Bậc Trưởng Lão và các Thiền Sư khác tại đây.
AUDIOS CUỐN SÁCH NHỮNG VỊ THIỀN SƯ ĐƯƠNG THỜI