Đại Phẩm I – Chương Uposatha: Tụng Phẩm Thứ Ba
Đại Phẩm I
Chương Uposatha
Tụng Phẩm Thứ Ba
Vào lúc bấy giờ, tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều vị tỳ khưu thường trú đã tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy đã không biết rằng: “Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.” Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi đã thực hiện lễ Uposatha và đã đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đã đi đến. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (1)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (2)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (3)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (4)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (5)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (6)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổnPātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (7)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pāti-mokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (8)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (9)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổnPātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (10)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pāti-mokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (11)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (12)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkhanên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (13)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (14)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm lại tưởng là hợp nhất, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Vô tội đối với các vị đọc tụng. (15)
Dứt mười lăm trường hợp vô tội.
–ooOoo–
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (1)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy tưởng là đúng Pháp, tưởng là đúng Luật, là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm, rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên thì có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (4-15)
Dứt mười lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm.
–ooOoo–
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (1)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự nghi ngờ rằng: ‘Lễ Uposatha của chúng ta được phép thực hiện hay không được phép?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên thì có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (4-15)
Dứt mười lăm trường hợp có sự nghi ngờ.
–ooOoo–
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposathavà đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tộidukkaṭa. (1)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposathavà đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (2)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposathavà đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội dukkaṭa. (3)
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có sự ngần ngại rằng: ‘Lễ Uposatha vẫn được phép thực hiện đối với chúng ta, chứ không phải không được phép đối với chúng ta’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy ―(như trên)― trong khi tập thể chưa đứng lên ―(như trên)― một số thuộc tập thể đã đứng lên ―(như trên)― toàn bộ tập thể đã đứng lên thì có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn ―(như trên)― (có số lượng) tương đương ―(như trên)― (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tộidukkaṭa. (4-15)
Dứt mười lăm trường hợp đã bỏ qua sự ngần ngại.
–ooOoo–
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkhanên được đọc tụng lại bởi các vị tỳ khưu ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Trong khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, phần còn lại nên được lắng nghe. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tộithullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, trong khi tập thể chưa đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, một số thuộc tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) nhiều hơn đi đến. Này các tỳ khưu, giới bổn Pātimokkha nên được đọc tụng lại bởi các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) tương đương đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy biết rằng: ‘Có những tỳ khưu thường trú khác chưa đi đến.’ Các vị ấy có dự tính chia rẽ (nghĩ rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi thực hiện lễ Uposatha và đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi giới bổn Pātimokkha vừa được đọc tụng xong bởi các vị ấy, toàn bộ tập thể đã đứng lên, có các tỳ khưu thường trú khác (có số lượng) ít hơn đi đến. Phần đã được đọc tụng là đã được đọc tụng tốt đẹp, sự trong sạch nên được bày tỏ trong sự hiện diện của các vị ấy. Các vị đọc tụng phạm tội thullaccaya.
Dứt mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ.
Dứt hai mươi lăm nhóm ba.
–ooOoo–
Này các tỳ khưu, trường hợp tại trú xứ nọ vào ngày lễ Uposatha có nhiều tỳ khưu thường trú tụ hội lại là bốn vị hoặc hơn. Các vị ấy không biết rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không biết rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nhìn thấy các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới, ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đang đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Các vị ấy không nghe rằng: ‘Các vị tỳ khưu thường trú khác đã đi vào trong ranh giới,’ ―(như trên)― Theo phương thức của một trăm bảy mươi lăm nhóm ba về vị thường trú với vị thường trú, về vị vãng lai với vị thường trú, về vị thường trú với vị vãng lai, về vị vãng lai với vị vãng lai, bằng cách thức thêm vào những phần tương tự thì tạo ra được bảy trăm nhóm ba.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười bốn là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười bốn là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu (có số lượng) tương đương thì các vị vãng lai nên thuận theo các vị thường trú. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên thuận theo các vị vãng lai.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày đầu tháng là của các tỳ khưu thường trú, ngày mười lăm là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn và các vị thường trú không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành. Nếu (có số lượng) tương đương và các vị thường trú không mong muốn ()unwillingly adv.) thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai; các vị vãng lai nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposathanên được tiến hành. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn thì các vị thường trú nên ban cho sự hợp nhất đến các vị vãng lai hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới.
Này các tỳ khưu, trường hợp ngày mười lăm là của các tỳ khưu thường trú, ngày đầu tháng là của các tỳ khưu vãng lai. Nếu các vị thường trú (có số lượng) nhiều hơn thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu (có số lượng) tương đương thì các vị vãng lai nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú hoặc là nên đi ra khỏi ranh giới. Nếu các vị vãng lai (có số lượng) nhiều hơn và các vị vãng lai không mong muốn thì không nên ban cho sự hợp nhất đến các vị thường trú; các vị thường trú nên đi ra khỏi ranh giới rồi lễ Uposatha nên được tiến hành.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) giường ghế nệm gối được sắp xếp cẩn thận, nước uống nước rửa khéo được bố trí, phòng ốc được quét dọn sạch sẽ, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: ‘Có các tỳ khưu thường trú hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễUposatha thì phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nghe được sự biểu hiện của việc cư trú, đặc điểm của việc cư trú, hiện tướng của việc cư trú, dấu hiệu của việc cư trú của các tỳ khưu thường trú (như là) tiếng bước chân của những vị đang đi kinh hành, tiếng học bài, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: ‘Có các tỳ khưu thường trú hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) bình bát khác lạ, y khác lạ, vật lót ngồi khác lạ, sự vung vãi nước rửa các bàn chân, sau khi nhìn thấy khởi lên nghi ngờ: ‘Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễUposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nghe được sự biểu hiện của việc đi đến, đặc điểm của việc đi đến, hiện tướng của việc đi đến, dấu hiệu của việc đi đến của các tỳ khưu vãng lai (như là) tiếng bước chân của các vị đang đi đến, tiếng động gây nên bởi các đôi dép, tiếng đằng hắng, tiếng hắt hơi, sau khi nghe khởi lên nghi ngờ: ‘Có các vị tỳ khưu vãng lai hay không có?’ Các vị nghi ngờ nhưng không tìm kiếm, sau khi không tìm kiếm rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm không nhìn thấy, sau khi không nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposathachung thì vô tội. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị nghi ngờ rồi tìm kiếm, sau khi tìm kiếm thì nhìn thấy, sau khi nhìn thấy có dự tính chia rẽ (nói rằng): ‘Các vị này tiêu mất đi! Các vị này biến mất đi! Ai mà cần đến các vị ấy?’ rồi tiến hành lễ Uposatha thì phạm tội thullaccaya.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm là thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposathachung thì vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu vãng lai nhìn thấy các tỳ khưu thường trú thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai thuộc nhóm cộng trú khác. Các vị ấy nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú, sau khi nhận lầm thuộc cùng nhóm cộng trú rồi không hỏi, sau khi không hỏi rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi vẫn không thay đổi (quan điểm), sau khi không thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì vô tội.
Này các tỳ khưu, trường hợp các tỳ khưu thường trú nhìn thấy các tỳ khưu vãng lai thuộc cùng nhóm cộng trú. Các vị ấy nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác, sau khi nhận lầm thuộc nhóm cộng trú khác rồi không hỏi, sau khi không hỏi lại tiến hành lễ Uposatha chung thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) lại tiến hành lễ Uposatha riêng rẽ thì phạm tội dukkaṭa. Các vị ấy hỏi, sau khi hỏi rồi thay đổi (quan điểm), sau khi thay đổi (quan điểm) rồi tiến hành lễ Uposatha chung thì vô tội.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ không có tỳ khưu trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu nhưng các tỳ khưu ở nơi ấy là thuộc nhóm cộng trú khác trừ phi (đi cùng) với hội chúng, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha từ chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vào ngày lễ Uposatha vị tỳ khưu từ chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú ngụ hoặc nơi không phải là chỗ trú ngụ có tỳ khưu và các tỳ khưu ở nơi ấy thuộc cùng nhóm cộng trú, nếu biết rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị tỳ khưu ni; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa.
Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có cô ni tu tập sự ―(như trên)― có vị sa di ―(như trên)― có vị sa di ni ―(như trên)― có người đã từ bỏ điều học ―(như trên)― có vị đã phạm tội cực nặng; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa.
Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp.
Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi ―(như trên)― đến hội chúng đã ngồi xuống có vị bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác; vị nào đọc tụng thì nên được hành xử theo pháp.
Này các tỳ khưu, không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ vô căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa.
Không nên đọc tụng giới bổn Pātimokkha đến hội chúng đã ngồi xuống có kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu) ―(như trên)― có kẻ đã đi theo ngoại đạo ―(như trên)― có loài thú ―(như trên)― có kẻ giết mẹ ―(như trên)― có kẻ giết cha ―(như trên)― có kẻ giết A-la-hán ―(như trên)― có kẻ làm nhơ tỳ khưu ni ―(như trên)― có kẻ chia rẽ hội chúng ―(như trên)― có kẻ làm chảy máu (đức Phật) ―(như trên)― có kẻ lưỡng căn; vị nào đọc tụng thì phạm tội dukkaṭa.
Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha với việc trao ra sự trong sạch của vị hành parivāsa, trừ trường hợp tập thể không bị cách ly.[6]
Này các tỳ khưu, không nên tiến hành lễ Uposatha không nhằm ngày Uposatha trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng.
Dứt chương Uposatha là chương thứ nhì.
Tụng phẩm thứ ba.
–ooOoo–
Trong chương này có tám mươi sáu sự việc.
Tóm lược chương này
Những người ngoại đạo, và đức vua Bimbisāra, (cho phép) tụ hội, (ngồi) im lặng, (giảng) Giáo Pháp, nơi thanh vắng, giới bổn Pātimokkha, (đọc tụng) hàng ngày, rồi một lần.
Tùy theo tập thể, của các vị hợp nhất, có sự hợp nhất, và ở Maddakucchi, ranh giới lớn, dòng sông, ở dãy phòng, tại hai chỗ, và các (ranh giới) nhỏ.
Các vị mới tu, và ở Rājagaha nữa, ranh giới với sự không xa lìa, điều làm trước trong việc ấn định ranh giới, và điều làm sau trong việc hủy bỏ ranh giới.
Ranh giới làng là không ấn định, ở sông, ở biển, ở ao hồ, việc ném ra bụm nước, các vị làm gối lên, và tương tự như thế ấy các vị làm trùm lên.
Bao nhiêu cách hành sự? Việc đọc tụng, các kẻ lục lâm, và lúc không có, Pháp, Luật, các vị hăm dọa, lại thêm sự hăm dọa vì Luật.
Việc kết tội, khi đã thỉnh ý, việc phản đối (hành sự) sai Pháp, bốn năm vị, các vị khác bày tỏ (quan điểm), nếu cố ý (không cho nghe), trong sự nỗ lực.
Có sự hiện diện của cư sĩ, các vị chưa được mời thỉnh, ở Codanā, vị không biết, nhiều vị không biết, ngay trong hôm ấy, và các vị không đi.
(Là ngày) thứ mấy? Có bao nhiêu? (Khất thực) ở vùng xa, và đã không nhớ để thông báo, có rác rến, chỗ ngồi, đèn, (đi) phương xa, vị khác là vị nghe nhiều.
Ngay hôm ấy, lễ Uposatha của mùa (an cư) mưa, trong sạch và hành sự, các thân quyến, vị Gagga, (lễ Uposatha của) bốn, ba, hai, một vị, sự phạm tội, tội đồng phạm, đã nhớ ra.
Toàn bộ hội chúng có sự nghi ngờ, các vị không biết, vị nghe nhiều, (có số lượng) nhiều hơn, tương đương, ít hơn, tập thể, và khi chưa đứng lên.
Một số đã đứng lên, tất cả (đã đứng lên), các vị biết, và có sự nghi ngờ, có sự ngần ngại rằng: ‘vẫn là được phép,” trong khi biết, trong khi nhìn thấy, và các vị nghe được.
Về vị vãng lai với vị thường trú, thêm nữa là ngày mười bốn và mười lăm, ngày đầu tháng, ngày mười lăm, hiện tướng và việc đồng cộng trú, ở cả hai (trường hợp).
Vị thực hành parivāsa, không nhằm ngày Uposatha, trừ phi vào lúc hợp nhất hội chúng. Những điều tóm tắt được chia chẻ này là đầu mối làm rõ các sự việc.”
–ooOoo–
[6] Nghĩa là tập thể này không phải là các vị đang chịu hành phạt parivāsa. Chúng tôi chọn nghĩa như trên dựa vào lời giải thích của nhóm từ “vuṭṭhitāya parisāya = với tập thể đã bị cách ly” là “với việc ban cho sự thỏa thuận từ các vị (tỳ khưu) đang chịu hành phạt parivāsa” được tìm thấy ở bộ Bhikkhunīvibhaṅga – Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni. Từ avuṭṭhitāya còn có nghĩa là “chưa đứng lên, chưa được thoát tội.”
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)