Tiểu Phẩm Ii – Các Chương Tiểu Sự: Tụng Phẩm Thứ Nhất Và Thứ Ba
Tiểu Phẩm II: Các Chương Tiểu Sự
Các Tiểu Sự
Tụng phẩm thứ nhất và thứ ba
Sau đó, khi đã ngự tại thành Vesāli theo như ý thích đức Thế Tôn đã lên đường đi đến xứ Bhaggā. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến xứ Bhaggā. Tại nơi đó ở xứ Bhaggā, đức Thế Tôn ngự tại Suṃsumāragira, trong khu rừng Bhesakalā, nơi vườn nai.
Vào lúc bấy giờ, lâu đài tên Kokanada của vương tử Bodhi vừa mới được xây dựng không bao lâu, chưa có Sa-môn hoặc Bà-la-môn hay bất cứ người nào vào cư ngụ.
Khi ấy, vương tử Bodhi đã bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng: – “Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy đến. Ngươi hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hãy đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn, hãy hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái với lời nói của ta rằng: ‘Bạch ngài, vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ở chân của đức Thế Tôn, và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái.’ Và ngươi hãy nói như vầy: ‘Bạch đức Thế Tôn, xin ngài cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’”
– “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã bày tỏ sự thân thiện đối với đức Thế Tôn, sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi đã ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái. Và nói như vầy: ‘Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’” Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng.
Khi ấy, chàng thanh niên con trai bà Sañjikā sau khi biết được sự nhận lời của đức Thế Tôn đã từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến gặp vương tử Bodhi, sau khi đến đã nói với vương tử Bodhi điều này: – “Thưa ngài, chúng tôi đã bạch đức Thế Tôn Gotama ấy với lời nói của ngài là: ‘Vương tử Bodhi xin đê đầu đảnh lễ ngài Gotama và hỏi thăm (ngài) về sự ít bệnh, ít đau, trạng thái nhẹ nhàng, khỏe mạnh, sống thoải mái. Và nói như vầy: Xin ngài Gotama cùng với hội chúng tỳ khưu nhận lời bữa thọ trai vào ngày mai của vương tử Bodhi.’ Và Sa-môn Gotama đã nhận lời.”
Sau đó, khi trải qua đêm ấy vương tử Bodhi đã cho chuẩn bị vật thực hảo hạng loại cứng loại mềm rồi ra lệnh trải các tấm vải trắng ở lâu đài Kokanada cho đến tận bậc cấp ở ngoài cùng, xong đã bảo chàng thanh niên con trai bà Sañjikā rằng: – “Này con trai của bà Sañjikā mến, hãy đến. Ngươi hãy đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến hãy thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: ‘Bạch ngài, đã đến giờ; bữa ăn đã chuẩn bị xong.’” – “Thưa ngài, xin vâng.” Rồi chàng thanh niên con trai bà Sañjikā nghe lời vương tử Bodhi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn rằng: – “Bạch ngài Gotama, đã đến giờ; bữa ăn đã chuẩn bị xong.”
Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, rồi đi đến tư gia của vương tử Bodhi cùng với hội chúng tỳ khưu. Vào lúc bấy giờ, vương tử Bodhi đứng ở bên ngoài cổng ra vào đang chờ đợi đức Thế Tôn. Rồi vương tử Bodhi đã nhìn thấy đức Thế Tôn đang từ đàng xa đi lại, sau khi nhìn thấy vương tử Bodhi đã từ chỗ ấy đi ra đón tiếp, sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, thỉnh ngài đi phía trước rồi đã đi đến lâu đài Kokanada.
Khi ấy, đức Thế Tôn đã đứng lại cạnh bậc cấp ở ngoài cùng. Rồi vương tử Bodhi đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên các tấm vải. Bạch ngài, xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Khi được nói như vậy, đức Thế Tôn đã im lặng. Đến lần thứ nhì, ―(như trên)― Đến lần thứ ba, vương tử Bodhi đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn hãy bước lên các tấm vải. Bạch ngài, xin đấng Thiện Thệ hãy bước lên các tấm vải, việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Khi ấy, đức Thế Tôn đã nhìn sang đại đức Ānanda. Rồi đại đức Ānanda đã nói với vương tử Bodhi điều này: – “Thưa vương tử, xin hãy gấp các tấm vải lại. Đức Thế Tôn sẽ không bước lên tấm thảm trải bằng vải. Đấng Như Lai có lòng thương tưởng đến chúng sanh sau này.”[3]
Sau đó, vương tử Bodhi đã bảo gấp lại các tấm vải và cho sắp đặt chỗ ngồi ở phía trên của lâu đài Kokanada. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bước lên lâu đài Kokanada và ngồi xuống ở chỗ ngồi đã được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Sau đó, vương tử Bodhi đã tự tay làm hài lòng và toại ý hội chúng tỳ khưu có đức Phật dẫn đầu bằng thức ăn hảo hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong, có bàn tay đã rời bình bát, vương tử Bodhi đã ngồi xuống một bên.
Khi vương tử Bodhi đã ngồi xuống một bên, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho vương tử Bodhi bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Sau đó, nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đức Thế Tôn đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên bước lên các tấm thảm trải bằng vải; vị nào bước lên thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có người đàn bà bị sẩy thai nọ đã thỉnh các tỳ khưu đến rồi trải ra tấm vải và đã nói điều này: – “Thưa các ngài, xin hãy bước lên tấm vải.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại không bước lên.
– “Thưa các ngài, xin hãy bước lên tấm vải để đem lại sự may mắn.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại đã không bước lên.
Khi ấy, người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các ngài đại đức trong khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn lại không bước lên tấm thảm trải bằng vải?” Các tỳ khưu đã nghe người đàn bà ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, các gia chủ tin vào sự may mắn. Này các tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm thảm trải bằng vải trong khi được thỉnh cầu để đem lại sự may mắn.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại không bước lên tấm vải chùi chân. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, ta cho phép bước lên tấm vải chùi chân.”
Vào lúc bấy giờ, sau khi ngự tại xứ Bhaggā theo như ý thích đức Thế Tôn đã lên đường đi đến thành Sāvatthi. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Sāvatthi. Tại nơi đó trong thành Sāvatthi, đức Thế Tôn ngự tại Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Khi ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và cái chổi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), và cái chổi của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.” Đức Thế Tôn đã thọ nhận các chum và cái chổi. Đức Thế Tôn đã không thọ nhận vật chà chân (bằng đất nung).
Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, khi đã được đức Thế Tôn chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi bằng bài Pháp thoại, Visākhā mẹ của Migāra đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái chum và cái chổi. Này các tỳ khưu, không nên sử dụng vật chà chân (bằng đất nung); vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba vật chà chân: cát, sỏi, và đá bọt biển.”
Khi ấy, Visākhā mẹ của Migāra mang theo cái quạt (hình vuông) và cái quạt lá cọ (hình tròn) đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, Visākhā mẹ của Migāra đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, xin đức Thế Tôn thọ nhận cái quạt (hình vuông) và cái quạt lá cọ (hình tròn) của con; việc ấy sẽ đem lại cho con sự lợi ích và an vui lâu dài.”
Đức Thế Tôn đã thọ nhận cái quạt (hình vuông) và cái quạt lá cọ (hình tròn). Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho Visākhā mẹ của Migāra bằng bài Pháp thoại. Sau đó, Visākhā mẹ của Migāra ―(như trên)― hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi. Sau đó, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái quạt (hình vuông) và cái quạt lá cọ (hình tròn).”
Vào lúc bấy giờ, quạt đuổi muỗi được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) quạt đuổi muỗi.”
Quạt đuôi bò rừng được phát sanh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng quạt đuôi bò rừng; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ba loại quạt: làm bằng vỏ cây, làm bằng loại rễ cây usīra, làm bằng lông đuôi chim công.”
Vào lúc bấy giờ, ô dù được phát sanh đến hội chúng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đi lại đó đây. Vào lúc bấy giờ, có nam cư sĩ nọ đã đi đến công viên cùng với nhiều tín đồ của đạo lõa thể. Các tín đồ của đạo lõa thể đã nhìn thấy từ đàng xa các tỳ khưu nhóm Lục Sư mang ô dù đang đi lại, sau khi nhìn thấy đã nói với nam cư sĩ ấy điều này: – “Này ông, các bậc khả kính kia của ông mang ô dù đi đến kìa, giống như đám quan đại thần vậy.”
– “Này quý vị, các vị ấy không phải là các tỳ khưu, là các du sĩ ngoại đạo.”
– ‘Là các tỳ khưu, không phải là các tỳ khưu,’ họ đã thực hiện việc cá độ. Sau đó, nam cư sĩ ấy khi đi lại gần biết được rõ ràng nên mới phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các ngài đại đức lại mang ô dù đi đó đây?”
Các tỳ khưu đã nghe được nam cư sĩ ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, nghe nói ―(như trên)― có đúng không vậy?” – “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng ô dù; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Đối với vị ấy không có ô dù không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) ô dù đối với tỳ khưu bị bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu (nghĩ rằng): “Ô dù đã được đức Thế Tôn cho phép đối với tỳ khưu bị bệnh, không cho đối với vị không bị bệnh” rồi ngần ngại che ô dù ở trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép tỳ khưu không bị bệnh che ô dù ở trong tu viện, ở vùng phụ cận tu viện.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ buộc bình bát bằng sợi dây thừng treo ở cây gậy rồi đi ngang qua cổng của ngôi làng nọ vào lúc chiều tối. Dân chúng (bàn bạc rằng): “Này các vị, gã trộm kia đang đi, gươm của gã lấp lánh kìa” rồi đã đuổi theo, giữ lại, đến khi biết rõ, đã thả ra. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
– “Này đại đức, có phải đại đức mang theo gậy và dây thừng?”
– “Này các đại đức, đúng vậy.”
Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao tỳ khưu lại mang theo gậy và dây thừng?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này tỳ khưu, nghe nói ngươi mang theo gậy và dây thừng, có đúng không vậy?”
– “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, không nên mang theo gậy và dây thừng; vị nào mang theo thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy:
‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) dây thừng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu bị bệnh. Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Vị tỳ khưu bị bệnh ấy cần đi đến gặp hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, ngồi chồm hổm, chắp tay lên, và nên nói như vầy: ‘Bạch các ngài, tôi bị bệnh không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Bạch các ngài, tôi đây thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng.’ Nên thỉnh cầu đến lần thứ nhì. Nên thỉnh cầu đến lần thứ ba. Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu kinh nghiệm, có năng lực:
‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.
Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu tên (như vầy) bị bệnh, không có cây gậy không thể đi lại đó đây, không có sợi dây thừng không thể mang bình bát. Vị ấy thỉnh cầu hội chúng sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng. Hội chúng ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý việc ban cho sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.
Sự đồng ý về (việc sử dụng) gậy và dây thừng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.’”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ có tật nhai lại thức ăn. Vị ấy nhai đi nhai lại (thức ăn) rồi nuốt xuống. Các tỳ khưu phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vị tỳ khưu này ăn vật thực lúc sái thời.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy trước đây không lâu thuộc nòi giống trâu bò đã bị chết đi. Này các tỳ khưu, ta cho phép việc nhai lại đối với vị có tật nhai lại. Và này các tỳ khưu, sau khi ợ lên ở cửa miệng (vật đã ăn vào) không nên nuốt xuống; vị nào nuốt xuống thì nên được hành xử theo Pháp.”[4]
Vào lúc bấy giờ, có bữa trai phạn dâng đến hội chúng của nhóm người nọ. Nhiều hột cơm đã bị rơi vãi trong phòng ăn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử trong khi được dâng cơm lại không thọ lãnh một cách thận trọng, vì mỗi một hột cơm được tạo nên bởi trăm công sức?” Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, vật nào bị rơi xuống trong khi được dâng cúng, ta cho phép tự thân nhặt lên và thọ dụng vật ấy. Này các tỳ khưu, vật ấy đã được xả thí bởi các thí chủ.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đi khất thực với các móng được để dài. Có người đàn bà nọ đã nhìn thấy rồi nói với vị tỳ khưu ấy điều này: – “Ngài ơi, hãy đến. Hãy thực hiện việc lứa đôi đi.”
– “Này chị gái, thôi đi. Việc ấy không được phép.”
– “Ngài ơi, nếu ngài không thực hiện, giờ đây tôi sẽ cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng tay của mình rồi sẽ làm ầm ĩ: ‘Tỳ khưu này xúc phạm tôi.’”
– “Này chị gái, cô nên biết điều.”
Khi ấy, người đàn bà ấy đã cào cấu khắp mình mẩy bằng các móng tay của mình rồi đã làm ầm ĩ: “Tỳ khưu này xúc phạm tôi.”
Dân chúng đã chạy lại và bắt giữ vị tỳ khưu ấy. Rồi những người ấy đã nhìn thấy da và máu ở móng tay của người đàn bà ấy, sau khi nhìn thấy (biết được rằng): ‘Hành động này là của chính người đàn bà này, vị tỳ khưu không phải là người làm’ rồi đã thả vị tỳ khưu ấy ra.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu.
– “Này đại đức, có phải đại đức đã để dài các móng?”
– “Này các đại đức, đúng vậy.”
Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Vì sao các tỳ khưu lại để dài các móng?”
Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, các móng không nên để dài; vị nào để dài thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu xé móng bằng móng tay, cắn móng bằng miệng, mài móng ở tường. Các ngón bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép việc cắt móng.”
Các vị cắt móng làm chảy máu. Các ngón bị đau.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép cắt móng đến sát phần thịt.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo trau chuốt hai mươi (móng tay và chân). Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên bảo trau chuốt hai mươi (móng tay và chân); vị nào bảo trau chuốt thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép lấy đất ra (từ các móng).”
Vào lúc bấy giờ, tóc của các tỳ khưu bị dài. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, các tỳ khưu có khả năng để xuống tóc cho nhau không?”
– “Bạch Thế Tôn, có khả năng.”
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) dao cạo, đá mài dao cạo, bao đựng dao cạo, miếng vải len, tất cả vật dụng liên quan đến dao cạo.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tỉa râu, để râu dài ra, tạo dáng chòm râu dưới cằm, tạo dáng chòm râu hình vuông, tạo dáng lông ngực, tạo dáng lông bụng, làm đứng giống ngà voi, nhổ (cạo) lông ở chỗ kín. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên tỉa râu, không nên để râu dài ra, không nên tạo dáng chòm râu dưới cằm, không nên tạo dáng chòm râu hình vuông, không nên tạo dáng lông ngực, không nên tạo dáng lông bụng, không nên làm đứng giống ngà voi, không nên nhổ (cạo) lông ở chỗ kín; vị nào nhổ (cạo) thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở chỗ kín. Thuốc không thể bám vào. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhổ (cạo) lông ở chỗ kín do duyên cớ bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo cắt tóc bằng kéo. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên bảo cắt tóc bằng kéo; vị nào bảo cắt thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị vết thương ở trên đầu, không thể xuống tóc bằng dao cạo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép bảo cắt tóc bằng kéo do duyên cớ bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu để lông mũi dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ thờ phụng quỷ thần vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên để lông mũi dài; vị nào để thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu lấy lông mũi ra với mảnh sành hoặc bằng sáp ong. Hai lỗ mũi bị đau. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) cái nhíp (nhổ lông).”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư bảo nhổ tóc bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên bảo nhổ tóc bạc; vị nào bảo nhổ thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các lỗ tai của vị tỳ khưu nọ bị các ráy tai che bít. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) đồ lấy ráy tai.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các đồ lấy ráy tai đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các đồ lấy ráy tai đủ loại; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tích trữ nhiều đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ. Dân chúng trong khi dạo quanh tu viện nhìn thấy rồi phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử lại tích trữ nhiều đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ giống như nhà buôn bán đồ đồng vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên tích trữ đồ vật làm bằng đồng thau và đồ vật làm bằng đồng đỏ; vị nào tích trữ thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu ngần ngại (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, và vật dùng làm cán (tay cầm). Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thuốc cao, que bôi thuốc cao, đồ lấy ráy tai, vật dùng làm cán (tay cầm).”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ngồi ôm đầu gối bằng y hai lớp. Các lớp vải của y hai lớp bị tơi tả. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên ngồi ôm đầu gối bằng y hai lớp; vị nào ngồi thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ bị bệnh. Không có vải băng bó, vị ấy không được thoải mái. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) vải băng bó.”
Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Vải băng bó nên được làm ra như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khung dệt, con thoi, sợi dệt, kim dệt, và tất cả vật dụng liên quan đến việc dệt.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ không buộc dây thắt lưng đã đi vào làng để khất thực. Ở trên đường đi, y nội của vị ấy đã bị tuột xuống. Dân chúng đã kêu ồ lên. Vị tỳ khưu đã bị xấu hổ. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, vị không buộc dây thắt lưng không nên đi vào làng; vị nào đi vào thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép dây thắt lưng.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các dây thắt lưng đủ loại: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các dây thắt lưng đủ loại: loại do nhiều sợi bện lại, loại giống hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hai loại dây thắt lưng: loại bằng vải, và cái ruột tượng.”
Các mép của dây thắt lưng bị sờn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích.”
Đầu chóp của dây thắt lưng bị sờn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép khâu tròn (hai đầu chóp), thắt nút (hai đầu chóp).”
Hai đầu chóp của dây thắt lưng đã khâu lại bị sờn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) khóa thắt lưng.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các khóa thắt lưng đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các khóa thắt lưng đủ loại; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò, làm bằng chỉ sợi.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Ānanda đã đắp các y hai lớp mỏng nhẹ rồi đi vào làng để khất thực. Do cơn gió xoáy, các y hai lớp đã bị tốc lên. Sau đó, đại đức Ānanda đã đi về lại tu viện và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút, cái nơ buộc.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư sử dụng các hột nút đủ loại làm bằng vàng, làm bằng bạc. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên sử dụng các hột nút đủ loại; vị nào sử dụng thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép làm bằng xương, làm bằng ngà răng, làm bằng sừng, làm bằng sậy, làm bằng tre, làm bằng gỗ, làm bằng nhựa cây, làm bằng trái cây, làm bằng đồng, làm bằng vỏ sò, làm bằng chỉ sợi.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu cài hột nút, cài cái nơ buộc ở trên y. Y bị sờn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hột nút hình dẹp, cái nơ buộc hình dẹp.”
Các vị cài hột nút hình dẹp, cài cái nơ buộc hình dẹp ở góc chéo (của y). Phần cuối (của y) bị mở ra. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép cài hột nút hình dẹp ở góc chéo (của y), cài cái nơ buộc hình dẹp sau khi lùi vào bảy lóng tay hoặc tám lóng tay.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc vải lót trong của người tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên mặc vải lót trong của người tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc, loại vải có tua, loại vải thật dài; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư mặc váy. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như phu mang vác của đức vua vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên mặc váy; vị nào mặc thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia; vị nào trùm thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đeo túi quàng ở hai vai. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như phu mang vác của đức vua vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên đeo túi quàng ở hai vai; vị nào đeo thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép túi đeo một bên vai, túi hai người xách, vật đội trên đầu, vật mang ở vai, vật mang ở hông, túi xách.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu không nhai gỗ chà răng. Miệng trở nên có mùi hôi. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng: Không có ích lợi cho mắt, miệng trở nên có mùi hôi, các vị giác không tinh tế, mật và đờm che lấp thức ăn, vị ấy không hứng thú với thức ăn. Này các tỳ khưu, đây là năm điều bất lợi trong việc không nhai gỗ chà răng.
Này các tỳ khưu, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng: Có ích lợi cho mắt, miệng không có mùi hôi, các vị giác được tinh tế, mật và đờm không che lấp thức ăn, vị ấy hứng thú với thức ăn. Này các tỳ khưu, đây là năm điều lợi ích trong việc nhai gỗ chà răng.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư nhai gỗ chà răng loại dài. Các vị còn đánh (gõ) các sa di bằng chính những cây gỗ ấy. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng loại dài; vị nào nhai thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng dài tối đa tám ngón tay và không nên đánh (gõ) sa di bằng cây gỗ ấy; vị nào đánh thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi nhai cây gỗ chà răng quá ngắn nên bị vướng ở cổ họng. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên nhai gỗ chà răng quá ngắn; vị nào nhai thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép gỗ chà răng ngắn tối thiểu bốn ngón tay.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư đốt đám lửa lớn. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như thợ đốt lò vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên đốt đám lửa lớn; vị nào đốt thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tu viện có cỏ rậm rạp. Trong khi đám lửa lớn bị phát cháy, các tu viện bị phát cháy. Các tỳ khưu ngần ngại (không) tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, khi đám lửa lớn phát cháy ta cho phép tạo nên ngọn lửa nghịch chiều để thực hiện sự bảo vệ.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư trèo lên cây, chuyền từ cây này sang cây khác. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các con khỉ vậy?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên trèo lên cây; vị nào trèo lên thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong khi đi đến thành Sāvatthi ở xứ sở Kosala, giữa đường đã có con voi đứng chận. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã chạy lại gần gốc cây, trong lúc ngần ngại đã không trèo lên cây. Con voi ấy đã đi sang hướng khác. Sau đó, vị tỳ khưu ấy đã đi đến thành Sāvatthi và kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép trèo lên cây với tầm cao của con người khi có việc cần làm, và đến tầm cao cần thiết trong những lúc hiểm nguy.”
Vào lúc bấy giờ, hai tỳ khưu tên Yameḷu và Tekula là hai anh em xuất thân dòng dõi Bà-la-môn có lời nói nhã nhặn với âm điệu ngọt ngào. Họ đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, các tỳ khưu ấy đã nói với đức Thế Tôn điều này: – “Bạch ngài, hiện nay các tỳ khưu có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật.” Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: – “Này những kẻ rồ dại kia, vì sao các ngươi lại nói như vầy: ‘Bạch ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật?’ Này những kẻ rồ dại kia, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, hay làm tăng thêm niềm tin của những người đã có đức tin. Này các tỳ khưu, hơn nữa chính sự việc này đem lại sự không có niềm tin ở những kẻ chưa có đức tin và làm thay đổi (niềm tin) của một số người đã có đức tin.” Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– “Này các tỳ khưu, không nên hoán chuyển lời dạy của chư Phật sang dạng có niêm luật; vị nào hoán chuyển thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép học tập lời dạy của đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân.”[5]
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập việc giải đoán điềm lành dữ. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các tỳ khưu đã nghe được những người dân ấy phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, kẻ chuyên chú trong việc giải đoán điềm lành dữ có thể đạt được sự tiến triển, sự tăng trưởng, sự lớn mạnh trong Pháp và Luật này không?”
– “Bạch ngài, không có điều ấy.”
– “Hoặc vị chuyên chú trong Pháp và Luật này có thể học tập việc giải đoán điềm lành dữ không?”
– “Bạch ngài, không có điều ấy.”
– “Này các tỳ khưu, không nên học tập việc giải đoán điềm lành dữ; vị nào học tập thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy việc giải đoán điềm lành dữ. ―(như trên)― Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên dạy việc giải đoán điềm lành dữ; vị nào dạy thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư học tập kiến thức nhảm nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên học tập kiến thức nhảm nhí; vị nào học tập thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư dạy kiến thức nhảm nhí. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Giống như các kẻ tại gia hưởng dục vậy.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, không nên dạy kiến thức nhảm nhí; vị nào dạy thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn, được vây quanh bởi hội chúng đông đảo, trong lúc đang giảng Pháp đã hắt hơi. Các tỳ khưu đã gây nên âm thanh ồn tiếng động lớn rằng: ‘Bạch ngài, mong rằng đức Thế Tôn hãy sống, mong rằng đấng Thiện Thệ hãy sống.’ Do âm thanh ấy sự giảng Pháp đã bị gián đoạn. Khi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, khi hắt hơi mà được nói rằng: ‘Mong rằng người hãy sống,’ do duyên ấy có thể tiếp tục sống hay có thể chết đi?”
– “Bạch ngài, không có điều ấy.”
– “Này các tỳ khưu, khi (ai đó) hắt hơi không nên nói rằng: ‘Mong rằng người hãy sống.’ Vị nào nói thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, khi các tỳ khưu hắt hơi, dân chúng nói rằng: - “Thưa các ngài, mong rằng các ngài hãy sống.” Các tỳ khưu trong khi ngần ngại không đáp lại. Dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: – “Tại sao các Sa-môn Thích tử khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, mong rằng ngài hãy sống’ lại không đáp lời?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, những người tại gia mong điều tốt lành. Này các tỳ khưu, khi được nói rằng: ‘Thưa ngài, mong rằng ngài hãy sống,’ ta cho phép đáp lại người tại gia rằng: ‘Mong rằng người sống lâu.’”
Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn được hội chúng đông đảo vây quanh đang ngồi giảng Pháp. Có vị tỳ khưu nọ vừa mới nhai tỏi. Vị ấy(nghĩ rằng): ‘Chớ để các tỳ khưu bị phiền toái,’ nên đã ngồi xuống ở một góc. Đức Thế Tôn đã nhìn thấy vị tỳ khưu ấy đã ngồi xuống ở một góc, sau khi nhìn thấy ngài đã hỏi các tỳ khưu rằng: – “Này các tỳ khưu, vì sao tỳ khưu ấy đã ngồi xuống ở một góc vậy?”
– “Bạch ngài, vị tỳ khưu ấy vừa mới nhai tỏi. Vị ấy (nghĩ rằng): ‘Chớ để các tỳ khưu bị phiền toái’ nên đã ngồi xuống ở một góc.”
– “Này các tỳ khưu, sau khi nhai một vật gì mà phải bị loại ra khỏi cuộc giảng Pháp như thế này thì có nên nhai vật ấy không?”
– “Bạch ngài, điều ấy không nên.”
– “Này các tỳ khưu, không nên nhai tỏi; vị nào nhai thì phạm tội dukkaṭa.”
Vào lúc bấy giờ, đại đức Sāriputta bị bệnh đau bụng gió. Khi ấy, đại đức Mahāmoggallāna đã đi đến gặp đại đức Sāriputta, sau khi đến đã nói với đại đức Sāriputta điều này:
– “Này đại đức Sāriputta, trước đây khi bị bệnh đau bụng gió, đại đức được thoải mái nhờ vật gì?”
– “Này đại đức, đối với tôi nhờ tỏi.”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép nhai tỏi do duyên cớ bệnh.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu tiểu tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép tiểu tiện ở một góc.”
Tu viện trở nên có mùi hôi. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước tiểu.”
Các vị đi tiểu tiện, ngồi xuống một cách khó khăn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục tiểu tiện.”
Bục tiểu tiện ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi tiểu tiện.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Lu nước tiểu không được đậy lại nên có mùi hôi. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu đại tiện đó đây trong tu viện. Tu viện trở nên dơ bẩn. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép đại tiện ở một góc.”
Tu viện trở nên có mùi hôi. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) hố tiêu.”
Thành hố tiêu bị sụp xuống. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (xây dựng) ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Hố tiêu có nền thấp nên bị ngập nước.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.”
Nền móng bị đổ xuống. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép xây dựng ba loại nền móng: nền móng bằng gạch, nền móng bằng đá, nền móng bằng gỗ.”
Các vị bị khó khăn trong khi bước lên.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: bậc thang bằng gạch, bậc thang bằng đá, bậc thang bằng gỗ.”
Các vị bị té trong khi bước lên (bậc thang). – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Ngồi ở rìa mép, các vị bị té trong khi đại tiện.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép trải lót, làm cái lỗ ở giữa để đại tiện.”
Các vị đi đại tiện, ngồi xuống một cách khó khăn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) bục đại tiện.”
Các vị tiểu tiện ra ở bên ngoài.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) rãnh dẫn nước tiểu.”
Gỗ chùi không có.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gỗ chùi.”
Thùng chứa đồ chùi không có.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) thùng chứa đồ chùi.”
Hố phân không được đậy lại nên có mùi hôi. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu trong khi đại tiện ở ngoài trời bị mệt mỏi vì lạnh và nóng. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà tiêu.”
Nhà tiêu không có cửa.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
Rác cỏ rơi vào trong nhà tiêu.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, dây treo y.”
Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ già yếu đại tiện xong trong khi đứng dậy bị té. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế tôn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay vịn.”
Vào lúc bấy giờ, nhà tiêu không được rào lại.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Không có nhà kho chứa đồ.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) nhà kho chứa đồ.”
Nhà kho chứa đồ có nền thấp ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nền cao.” Nền móng bị đổ xuống. ―(như trên)― Các vị bị khó khăn trong khi bước lên. ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, ta cho phép ba loại bậc thang: ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) tay cầm để vịn.”
Nhà kho chứa đồ không có cửa.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (thực hiện) cánh cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, chốt gài, đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, dây thừng để luồn qua.”
Rác cỏ rơi ở nhà kho chứa đồ.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép làm nẹp cây rồi trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, sơn màu đen, trét màu đỏ, trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại.”
Căn phòng bị lầy lội.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép rải cát.”
Các vị không thành công.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép trải đá phiến.”
Nước còn đọng lại.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (làm) rãnh thoát nước.”
Lu nước rửa không có.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) lu nước rửa.”
Gáo múc nước để rửa không có.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) gáo múc nước để rửa.”
Các vị rửa, ngồi xuống một cách khó khăn.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) bục ngồi rửa.”
Bục ngồi rửa ở nơi trống trải. Các tỳ khưu hổ thẹn khi rửa.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép rào quanh (bằng) ba loại hàng rào: hàng rào bằng gạch, hàng rào bằng đá, hàng rào bằng gỗ.”
Lu nước rửa không được đậy lại nên bị các rác cỏ luôn cả các vật dơ rơi vào.
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép (sử dụng) nắp đậy.”
Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư cư xử hành vi sai trái có hình thức như vầy: Họ trồng bông hoa hoặc bảo kẻ khác trồng, họ tưới hoặc bảo kẻ khác tưới, họ hái hoặc bảo kẻ khác hái, họ kết lại hoặc bảo kẻ khác kết lại, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết một mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm tràng hoa kết hai mặt, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm thảm hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đội đầu, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa đeo tai, họ làm hoặc bảo kẻ khác làm vòng hoa che ngực.
Họ đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết một mặt, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng tràng hoa kết hai mặt, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng thảm hoa, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng vòng hoa, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng vòng hoa đội đầu, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng vòng hoa đeo tai, đem tặng hoặc bảo kẻ khác đem tặng vòng hoa che ngực cho những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình.
Họ cùng với những nữ gia chủ, các cô tiểu thơ, những cô gái trẻ, các cô dâu, những cô tớ gái của các gia đình ăn chung trong một đĩa, uống chung trong một cốc, ngồi chung trên một chỗ ngồi, nằm chung trên một giường, nằm chung một tấm trải, nằm chung một tấm đắp, nằm chung một tấm trải và tấm đắp. Họ ăn sái giờ, họ uống rượu, họ đeo dây chuyền, xức nước hoa và phấn thơm. Họ nhảy múa, họ ca hát, họ tấu đàn, họ vui đùa. Họ lại còn nhảy múa cùng với người nữ đang nhảy múa, ca hát cùng với người nữ đang nhảy múa, tấu đàn cùng với người nữ đang nhảy múa, vui đùa cùng với người nữ đang nhảy múa; họ lại còn nhảy múa, … ca hát, … tấu đàn, … vui đùa cùng với người nữ đang ca hát; họ lại còn nhảy múa, … ca hát, … tấu đàn, … vui đùa cùng với người nữ đang tấu đàn; họ lại còn nhảy múa cùng với người nữ đang vui đùa, ca hát cùng với người nữ đang vui đùa, tấu đàn cùng với người nữ đang vui đùa, vui đùa cùng với người nữ đang vui đùa.
Họ còn tiêu khiển cờ tám ô vuông, cờ mười ô vuông, họ chơi với bàn cờ tưởng tượng ở trên không, họ chơi lối sắp vòng tròn, họ chơi lối rút quân cờ, họ chơi ném xúc xắc, họ chơi đánh gậy, họ chơi trò vẽ bằng tay, họ chơi trò sấp ngửa, họ chơi trò thổi kèn bằng lá cây, họ chơi trò uốn dẻo, họ chơi trò nhào lộn, họ chơi trò dùng lá cọ giả làm cối xay gió, họ chơi trò đo lường, họ chơi trò đua xe, họ thi bắn cung, họ chơi trò đố chữ, họ chơi trò đoán ý, họ chơi trò nhái điệu bộ, họ tập cỡi voi, họ tập cỡi ngựa, họ tập điều khiển xe, họ tập bắn cung, họ tập đao kiếm, họ chạy phía trước voi, họ chạy phía trước ngựa, họ chạy đi chạy lại phía trước xe; họ huýt sáo, họ vỗ tay, họ vật lộn, họ đánh nhau bằng các nắm tay. Họ trải y ca-sa hai lớp ở giữa nhà rồi mời cô vũ nữ rằng: ‘Này cô em, hãy nhảy ở đây này,’ họ còn vỗ tay tán thưởng. Họ cư xử hành vi sai trái theo nhiều cách. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. ―(như trên)― – “Này các tỳ khưu, không nên cư xử hành vi sai trái theo nhiều cách; vị nào cư xử thì nên được hành xử theo Pháp.”
Vào lúc bấy giờ, khi đại đức Uruvelakassapa xuất gia, nhiều đồ vật bằng kim loại, đồ vật bằng gỗ, đồ vật bằng gốm sứ được phát sanh đến hội chúng. Khi ấy, các tỳ khưu đã khởi ý rằng: “Đồ vật bằng kim loại nào đã được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật bằng gỗ nào đã được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép? Đồ vật bằng gốm sứ nào đã được đức Thế Tôn cho phép, đồ vật nào không được cho phép?”
Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
– “Này các tỳ khưu, ta cho phép tất cả đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí, tất cả đồ vật bằng gỗ ngoại trừ ghế trường kỷ, ghế nệm lông thú, bình bát bằng gỗ, giày dép bằng gỗ, tất cả đồ vật bằng gốm sứ ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn.”
Chương Các Tiểu Sự là thứ năm.
*****
Tóm lược chương này
Ở thân cây, ở cột trụ, và ở tường nhà, ở tấm ván xẻ, với cây kỳ cọ, và chuỗi hột, cọ xát (thân thể lẫn nhau), cây chà lưng, bệnh ghẻ, và vị già cả, (dùng) bàn tay như thường lệ.
Không nên mang ngay cả hoa tai, hoa dạng chuỗi, dây chuỗi ở cổ, ở hông, vòng, vòng ở ngực, đồ trang sức ở tay, và nhẫn.
(Về tóc) dài, lược chải, vật hình mang rắn, bàn tay (xòe ra), (thoa) sáp ong, dầu nước, giương soi, và chậu nước, dầu (thoa), việc xoa bóp, và thoa phấn.
Các vị tô điểm, việc vẽ màu ở thân hình, và tô màu ở mặt, rồi cả hai việc, bệnh ở mắt, và ở trên đỉnh núi, sự (ngâm nga) kéo dài, âm điệu, (áo khoác) ở bên ngoài.
Xoài miếng, với các trái còn nguyên, con rắn, vị đã cắt đứt, và khúc gỗ trầm hương, các bình bát đủ loại, phần đáy bình bát, bằng vàng, bị dày cộm, bị lỏng chỏng.
Có màu sặc sỡ, bị hư hỏng, có mùi hôi, ở chỗ nắng, chúng đã bị vỡ, ở băng ghế, giường đúc, (tấm lót) cỏ, miếng vải, bục nền xung quanh, và ở giỏ mây, túi đựng, dây mang vai, tương tợ như thế về dây đeo bằng chỉ kết lại.
Ở chốt đinh, và ở giường, ở ghế, ở bắp vế, ở cái dù, việc mở cửa, bầu đựng nước, cái hũ, cái sọ từ thây người, các đồ thừa thãi, vật chứa.
Vị đã xé (bằng tay), dao có cán, bằng vàng, lông (gà), lạt tre, và ống đựng kim khâu, bột gây men, bột lúa mạch, bột đá, mật và sáp ong, nhựa cây.
Không vuông vức, đã buộc vào, chỗ không bằng phẳng, ở trên mặt đất, bị sờn, và không đạt kích thước, việc đo đạc, và đường chỉ may tạm, chân chưa rửa, đẫm nước, mang giày dép.
Các ngón tay, đồ bao ngón tay, thùng chứa đồ, các dây mang vai, ở ngoài trời, nền thấp, và luôn cả nền móng, các vị bị khó khăn.
Vị bị té, rác cỏ, việc tô vữa trong và ngoài, màu trắng, việc sơn màu đen, và việc chuẩn bị màu đỏ.
Việc trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng, sào máng y, và dây treo y, vị Lãnh Đạo đã cho phép.
Sau khi bỏ bê, các vị ra đi, bị gặm nhấm, bị rời ra, bị bung ra, ngay cả ở trên tường, mang theo bằng bình bát, rồi ra đi.
Túi đựng, và dây mang bằng chỉ kết lại, sau khi buộc đôi dép (ở hông), và cái túi đựng dép, dây vải mang vai là chỉ kết lại.
Nước uống chưa được làm thành đúng phép, ở trên đường, đồ lược nước, miếng vải lược, đồ lọc nước thông thường, hai vị tỳ khưu, vị Hiền Sĩ đã đi đến Vesāli.
Ở tại nơi ấy, Ngài đã cho phép đồ lọc có hai lớp, bể lọc nước, đồ lược nước, bởi các con muỗi, với thức ăn hảo hạng, nhiều chứng bệnh, và thầy thuốc Jīvaka.
Đường kinh hành, nhà tắm hơi, ở nơi không bằng phẳng, các nền bị thấp, ba loại nền móng, các vị gặp khó khăn, bậc thang và tay cầm, lan can.
Ở ngoài trời, rác cỏ, việc tô vữa trong và ngoài, màu trắng, việc sơn màu đen, và việc chuẩn bị màu đỏ.
Việc trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng, sào máng y, và dây treo y, và các vị làm nền cao.
Ba loại bậc thang, và tay cầm, cánh cửa, trụ cửa, rãnh xoay, chốt xoay, tay nắm, và chốt gài.
Đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, lỗ để xỏ dây, và sợi dây. Mô tròn, và ống thông khói, ở giữa, và đất sét đắp ở mặt.
Máng đựng đất sét, có mùi hôi, bị phỏng, vại chứa nước, gáo múc nước, làm ra mồ hôi, (nền) bị lầy lội, đã rửa sạch, rãnh thoát nước.
Ghế ngồi, ở nhà kho, công việc làm, cát, và đá phiến, rãnh thoát nước, các vị ở trần, ở nền đất, trời đang mưa, ba loại tấm choàng tại nơi ấy.
Giếng nước, và bị sụp đổ, bằng dây rừng, sợi dây thắt lưng, cần giọt, cần trục quay, ròng rọc, nhiều gàu múc bị bể.
(Gàu) bằng thiếc, bằng gỗ, bằng da thuộc, gian nhà, rác cỏ, và nắp đậy, máng chứa nước, hồ tắm, hàng rào, bị lầy lội, và bằng rãnh thoát nước.
Việc bị lạnh, hồ trữ nước, và nước bị ôi, mái vòng cung, bốn tháng, và các vị nằm, tấm thảm len, không nên chú nguyện để dùng riêng.
Được rắc dầu thơm, giá đỡ bình bát, các vị ăn chung trong một (tô), đã nằm chung, chuyện Vaḍḍha, chuyện Bodhi, Ngài đã không bước lên, cái chum, vật chà chân (bằng đất nung), cái chổi.
Cát, sỏi, và đá bọt biển là vật chà chân, cái quạt (hình vuông), cái quạt lá cọ, quạt đuổi muỗi, và luôn cả quạt đuôi bò.
Ô dù, và không có, ở trong tu viện, ba sự đồng ý về sợi dây, tật nhai lại, cơm rơi, các móng dài, các vị cắt, các ngón tay bị đau.
Có bị chảy máu, và cắt sát (phần thịt), hai mươi (ngón), việc để tóc dài, dao cạo, đá mài, bao đựng, miếng vải len, vật dụng để cạo.
Các vị tỉa râu, các vị để râu, râu dưới cằm, râu hình vuông, lông ngực, lông bụng, giống ngà voi, các vị nhổ (cạo) lông.
Các chứng bệnh, cái kéo, vết thương, (lông mũi) dài, và bằng mảnh sành, tóc bạc, bị bít kín (lỗ tai), đủ các loại, vật bằng đồng thau và thuốc cao.
Ngồi ôm đầu gối, và vải băng bó, sợi dệt, kim dệt, dây thắt lưng, loại do nhiều sợi bện lại, loại giống hình đầu rắn nước, loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích.
Loại bằng vải, và loại hai đầu được thắt lại, các mép (bị sờn), loại có bện cái trống nhỏ, loại giống như dây xích, đầu chóp, khâu tròn, và còn thắt nút nữa, đầu chóp đã khâu lại bị sờn.
Về khóa thắt lưng, hột nút, và cái nơ buộc, và loại có loại hình dẹp ở góc chéo (của y) và nên lùi vào, vải lót trong của người tại gia: loại quấn như vòi voi, loại vắt lên như đuôi cá, loại để hở bốn góc.
Loại vải có tua, loại vải thật dài, cái váy, trùm loại vải choàng bên ngoài của người tại gia, không nên đeo túi quàng ở hai vai, gỗ chà răng, việc đánh (gõ bằng gỗ chà răng).
Bị vướng ở cổ họng, và đám lửa lớn, ngọn lửa nghịch chiều, (trèo) cây, bởi con voi, vị Yameḷu, việc giải đoán điềm lành dữ, các vị đã học, các vị đã dạy lại.
Kiến thức nhảm nhí, việc dạy, Ngài đã hắt hơi, điều tốt lành, và (nhai) tỏi, bệnh gió, trở nên dơ bẩn, và có mùi hôi, khó khăn, bục (tiểu tiện).
Các vị hổ thẹn, không được đậy, có mùi hôi, và các vị đại tiện đó đây, có mùi hôi, hố tiêu, bị sụp xuống, nền cao, và các loại nền móng.
Bậc thang, tay cầm để vịn, ở rìa mép, bị khó khăn, và bục đại tiện, (tiểu) ra ngoài, khe rãnh, và gỗ chùi, thùng chứa, và không được đậy lại.
Nhà tiêu, và cánh cửa, và luôn cả trụ cửa, rãnh xoay và chốt xoay, tay nắm, và chốt gài.
Đinh khóa chốt, chốt cửa, lỗ khóa, và luôn cả lỗ để xỏ dây, dây thừng, việc trét vữa bên trên và bên dưới, việc sơn màu trắng, và màu đen.
Việc trang hoàng hình vòng hoa, trang hoàng hình tua, chốt treo bằng răng cá kiếm, vải trang hoàng năm loại, sào máng y, và dây treo, vị già yếu, hàng rào.
Và về căn phòng ở ngay tại nơi ấy nữa, việc rải cát, các đá phiến, bị đọng nước, rãnh thoát nước, luôn cả lu nước, và gáo múc.
Bị khó khăn, hổ thẹn, các nắp đậy, các vị đã cư xử hành vi sai trái, Ngài đã cho phép đồ vật bằng kim loại ngoại trừ vũ khí.
Ngoại trừ ghế trường kỷ, ghế nệm lông thú, bình bát bằng gỗ, và giày dép (bằng gỗ), bậc Đại Hiền Sĩ đã cho phép tất cả các đồ vật làm bằng gỗ.
Ngoại trừ đồ chà chân và loại lu lớn, đức Như Lai, đấng Bi Mẫn cũng đã cho phép tất cả đồ vật bằng gốm sứ.
Đối với sự việc nào, sự chỉ dẫn là tương tợ với sự việc trước và đã đã được tóm tắt ở trong phần tóm lược, sự việc ấy nên biết đến theo phương thức hướng dẫn.
Như vậy một trăm mười sự việc ở trong phần Các Tiểu Sự thuộc Tạng Luật là sự trợ giúp cho các vị hiền thiện trong việc duy trì Chánh Pháp.
Vị rành rẽ về Luật đã được học tập khéo léo, có tâm tốt lành, vô cùng hiền thiện, làm công việc giảng giải, thông minh, nghe nhiều, là vị xứng đáng việc cúng dường.”
Dứt Phần Tóm Lược.
–ooOoo–
[5] saka nirutti: Ngài Buddhaghosa giải thích rằng: “Ở đây ‘saka nirutti’ nghĩa là sự giảng giải được nói ra bởi đấng Chánh Đẳng Giác tức là sự phát biểu bằng ngôn ngữ của xứ Magadha” (Sđd. 1214). Các nhà học giả trong thời hiện tại đã nêu ra tranh luận về vấn đề này biện luận rằng từ sakāya còn có liên quan đến từ saka (bản thân) ám chỉ ngôn ngữ địa phương của mỗi cá nhân, thay vì Sakya (dòng dõi Thích Ca) ý nói đến ngôn ngữ cổ thời bấy giờ theo như lời giải thích của ngài Buddhaghosa. Chúng tôi ghi lời Việt theo ý kiến của các học giả thời sau này (ND).